Thêm bài học cảnh giác trước Trung Quốc
Xin giới thiệu bài viết “Tadjikistan dưới cái
bóng của Trung Quốc” đăng trên “Russkaia Planeta” ngày 08/12/2014 để
cùng suy ngẫm.
Nước cộng hòa Trung Á thân Nga nhất đã biến thành nước bị Trung Quốc chi phối kinh tế như thế nào?
Sau
khi Liên Xô tan rã, trong nhiều năm liền Tadjikstan (còn có các cách
gọi khác là Tajikistan, Tadzhikistan) được coi là nước cộng hòa Trung Á
thân Nga nhất. Nhưng đến cuối thập kỷ đầu của thế kỷ XXI những thực tiễn
kinh tế mới đã biến nước này thành một khu vực ngoại vi của Trung Quốc
và là cái máy bơm tiền từ Nga sang Trung Quốc.
Trung Quốc quay trở lại Trung Á
|
Bản đồ Tadjikistan (Wikipedia) |
Cuối
thế kỷ thứ XIX, dãy Pamir là khu vực xung đột lợi ích của bốn quốc gia –
ba đế quốc và một vương quốc (Nga, Anh, Trung Quốc và Afganistan). Sau
một quá trình lịch sử, nước Tajikistan với đường biên giới như hiện nay
được thành lập.
Vào cuối thế kỷ XVIII, Nhà Thanh ở
Trung Quốc đang ở giai đoạn cực thịnh và có yêu sách lãnh thổ đối với
toàn bộ lãnh thổ vùng Trung Á. Nhưng sau đó, gần như đến tận cuối thế kỷ
XX, Trung Quốc luôn ở trong tình trạng khủng hoảng kéo dài. Nước này
không có một ảnh hưởng đáng kể nào đến các nước Cộng hòa Trung Á cho đến
khi Liên Xô tan rã. Tadjikistan cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
Quan chức cao cấp nhất của một nước Trung Hoa mới
xuất hiện lần đầu tiên trên lãnh thổ Tadjikistan (lúc đó còn là Nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết Tadjikistan ) là Đại sứ đặc mệnh toàn
quyền Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên Xô Iui Hunlian. Ông này
đã có chuyến thăm làm quen tại Dushanbe (Thủ đô Tadjikistan) vào ngày
18/6/1991. Vào thời gian đó, tờ báo quan trọng nhất của Nước Cộng hòa
này là “ Communist Tadjikistan” (Người Đảng viên cộng sản Tadjikistan)
đã rất hồ hởi đưa tin về chuyến thăm này.
Chỉ sau
đó mấy tháng, cuối tháng 12/1991 thì Liên Xô đã biến mất trên bản đồ thế
giới. Ngay ngày 04/01/1992, Trung Quốc là một trong những nước đầu tiên
công nhận độc lập của Tadjikistan và thiết lập quan hệ ngoại giao với
nước này. Đại sứ quán Trung Quốc mở cửa tại Dushanbe ngày 13/3 ngay
trong năm đó.
Vào thời gian đó, Tadjikistan không
quan tâm lắm đến các quan hệ quốc tế bởi vì đang có nội chiến – theo các
số liệu khiêm tốn nhất thì đã có hàng chục nghìn người thiệt mạng. Đại
sứ quán Tadjikistan chỉ mở cửa trở lại tại Bắc Kinh 5 năm sau đó – vào
ngày 7/4/1997.
Cựu chủ tịch Nông trang mang tên Lê
Nin Emomali Rakhmonov (chính là E.Rakhmon hiện nay như đã nói ở trên),-
một trong những người chiến thắng trong cuộc nội chiến trở thành người
đứng đầu nhà nước chính thức vào cuối năm 1992.
Trong
10 năm sau đó, tuy tổng thống Rakhmonov tìm mọi cách để thể hiện định
hướng thân Nga của mình, nhưng chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của ông
ta với tư cách là người đứng đầu quốc gia lại là chuyến thăm Trung Quốc
vào tháng 3/1993 (mãi đến tháng 8 năm đó, Rakhmonov mới có cuộc gặp đầu
tiên với tổng thống Nga B.Elsin).
Tại Bắc Kinh ,
người đứng đầu Tadjikistan được những quan chức cao cấp nhất của nhà
nước và Đảng CS Trung Quốc đón tiếp. Cũng chính trong chuyến thăm này,
Rakhmonov đã ký vào một tuyên bố chung theo “ đề nghị” của giới lãnh đạo
Trung Quốc, trong đó có điều khoản là Tadjikistan và Trung Quốc sẽ:
“tiếp tục thảo luận các vấn đề biên giới còn tồn tại”.
Đằng
sau những vỏ bọc từ ngữ theo khuôn mẫu ngoại giao này là một thực tế -
những yêu sách lãnh thổ cũ của Trung Quốc đối với Liên Xô (cũ) vẫn không
hề thay đổi.
|
Những con đường núi tại Tajikistan, 1982.Ảnh: Ratushenko,1982/RIA Novosti |
Trung
Quốc, như đã biết, hành động không hấp tấp – nước này thiết lập mối
quan hệ với Tadjikistan một cách thận trọng, từng bước một nhưng rất
chắc và kiên trì . Để khởi đầu , Bắc Kinh cần một tuyến giao thông vững
chắc nối Trung Quốc với Tadjikistan. Biên giới giữa hai nước đi qua
những khu vực núi cao của dãy Pamir, nơi mà trước đây chỉ có những nhóm
người chăn thả súc vật sinh sống.
Tháng 12/1996,
hai nước ký một thỏa thuận về việc mở một cửa khẩu thương mại tạm thời
“Kulma” trên biên giới Tadjikistan và Trung Quốc. Đồng thời Trung Quốc
bắt đầu triển khai xây dựng một tuyến đường lớn trên lãnh thổ của mình
để có thể triển khai tiếp một tuyến đường ô tô hiện đại trên núi cao đến
biên giới với Tadjikistan. Để xây dựng tuyến đường xuyên núi này, Trung
Quốc mất gần 8 năm.
Về quan hệ kinh tế: Trong suốt
những năm 90, Trung Quốc chỉ cung cấp khoản tín dụng trị giá 10 triệu
đô la Mỹ và một lô hàng cứu trợ nhân đạo trị giá 200.000 đôla- một con
số trên là quá ít ỏi, gần như chỉ mang tính chất tượng trưng đối với các
mối quan hệ quốc tế. Không chỉ thế, các khoản tín dụng của Trung Quốc
được cấp với điều kiện bắt buộc là Tadjikistan phải mua hàng của nước
này .
Sự tham gia trực tiếp của Trung Quốc vào kinh
tế Tajikistan trong những năm 90 cũng rất hạn chế và chỉ dừng lại ở
việc thành lập một số xí nghiệp liên doanh chế biến bông và cải tạo nhà
máy thuốc lá ở Dushanbe.
Còn Dushanbe trong những
năm đó, mặc dù thề sống thề chết về tình hữu nghị của mình với nước Nga,
nhưng trên thực tế đã coi Trung Quốc là đối tác nước ngoài quan trọng
nhất. Đại sứ đầu tiên của Tadjikistan tại Trung Quốc là cựu Bí thư Thành
ủy Dushanbe cuối cùng D.Karimov – ông này trong thời kỳ nội chiến là
Thủ tướng chính phủ Tadjikistan.
Đến năm 2000,
Tổng thống Tadjikistan đã có 12 cuộc gặp thượng đỉnh với Tổng bí thư ĐCS
Trung Quốc Giang Trạch Dân- nhiều hơn nhiều so với các cuộc gặp với
những nhà lãnh đạo các nước khác, kể cả Nga. Kết quả của các cuộc gặp đó
là hàng chục thỏa thuận Tadjikistan- Trung Quốc về tất cả các lĩnh vực
hợp tác giữa hai nước, kể cả các thỏa thuận về “ điều chỉnh đường biên
giới” Tadjikistan lúc nào cũng có lợi cho phía Trung Quốc.
Năm
1999, lần đầu tiên Dushanbe chấp nhận cắt 200 km2 đất tại thung lũng
sông Markans ở khu vực ngã ba biên giới Trung Quốc- Tajikistan và
Kirgistan cho Thiên triều. Đúng một năm sau đó, khi việc bàn giao phần
lãnh thổ nói trên đã hoàn tất, Tổng bí thư ĐCS Trung Quốc Giang Trạch
Dân thăm Dushanbe – đây là chuyến thăm đầu tiên của người đứng đầu Trung
Quốc đến Tadjikistan.
Trong thông điệp chính thức
gửi Rakhmonov trước chuyến thăm, nhà lãnh đạo Trung Quốc khuyên: “ tập
trung mọi nỗ lực chung để đưa quan hệ giữa hai nước chúng ta lên một tầm
cao mới về chất trong thế kỷ mới…”
Người Tajikistan mặc quần áo Trung Quốc
Tháng
5/2002, tổng thống Rakhmonov lại đến Bắc Kinh để kỷ niệm trọng thể 10
năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Tadjikistan và Trung Quốc. Để “lập
thành tích” chào mừng ngày lễ trọng, hai bên đã ký thêm một hiệp định:
“Về phân định biên giới và giải quyết các tranh chấp lãnh thổ”, - theo
hiệp định này Tadjikistan đồng ý “bàn giao” thêm cho Trung Quốc 1.000
km2 nữa trên dãy Pamir.
|
Mùa thu hoạch bông ở Tajikistan. 1985.Ảnh :Ratushenko/RIA Novosti |
So
với Trung Quốc thì Tadjikistan là một nước nhỏ- dân số chỉ bằng 1/200
của Trung Quốc (con số của tác giả - theo số liệu của Ngân hàng thế giới
năm 2013 thì dân số nước này là 8.208.000 -ND).
Chính
vì vậy mà quy mô trợ giúp kinh tế của Trung Quốc cho Tadjikistan cũng
chỉ ở mức rất khiêm tốn. Đê trả công cho lần nhượng bộ lãnh thổ đầu
tiên, Giang Trạch Dân trong năm 2000 đã quyết định dành cho Tadjikistan
một khoản viện trợ khoảng hơn 3 triệu đôla một chút.
Năm
2004, Bộ quốc phòng hai nước ký một thỏa thuận về việc Trung Quốc dành
cho Tajikistan một khoản viện trợ quân sự không hoàn lại trị giá 8 triệu
nhân dân tệ (khoảng hơn 1 triệu đô la). Để so sánh, xin dẫn số liệu sau
đây – vào năm đó 01 chiếc tăng T-90 có giá cũng khoảng 1 triệu đôla.
Hợp
tác trong lĩnh vực quân sự giữa Tajikistan và Trung Quốc tuy không khoa
trương nhưng phát triển nhanh. Lãnh đạo hai nước có những mối quan tâm
giống nhau trong đấu tranh chống chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan.
Ngay
từ năm 1994, Trung Quốc đã huấn luyện một số nhóm nhỏ sỹ quan
Tadjikistan về các hoạt động chống du kích. Còn từ đầu thế kỷ XXI , hai
bên thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận chung tại khu vực các núi
gần Afganistan. Các cuộc tập trận như vậy thường được tiến hành dưới
danh nghĩa là “các cuộc tập trận chống ma túy”.
Ngoài
việc “nắn chỉnh” lại đường biên giới có lợi cho Trung Quốc, Bắc Kinh và
Dushanbe vào năm 2002 đã nhất trí đẩy nhanh tốc độ xây dựng đường ô tô
qua đèo Kulma để kết nối Trung Quốc với Tadjikistan.
Trong
suốt những năm 90 Tadjikistan hầu như không mua gì của Trung Quốc. Có 3
lý do: Thứ nhất, tại nước cộng hòa nghèo và đang lún sâu vào nội chiến
này dân chúng không có tiền.
Thứ hai, mặc dù đã
được phép buôn bán qua biên giới nhưng không có các tuyến đường hiện đại
nối hai nước. Thứ ba, nền kinh tế của chính Trung Quốc và khu vực tiếp
giáp với Tadjikistan là Khu tự trị Tân Cương- Duy Ngô Nhĩ kinh tể cũng
chỉ mới bắt đầu phát triển.
Trong những năm đó, mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu của Tadjikistan vào Trung Quốc là những nguyên
liệu chiến lược – bông và nhôm, - nhôm được sản xuất tại nhà máy có từ
thời Xô Viết ở Tursunhad. Cán cân thương mại nghiêng về phíaTadjikistan.
Sang
đầu thế kỷ XXI, tình hình đã thay đổi một cách căn bản. Theo các số
liệu thống kê thì trong giai đoạn 1999-2004, kim ngạch xuất khẩu từ
Tadjikistan vào Trung Quốc tăng gấp hai lần, còn nhập khẩu từ Trung Quốc
tăng tới 22 lần.
Theo số liệu của Cơ quan hải
quan Tadjikistan thì trong năm 2004, Tadjikistan đã nhập khẩu từ Trung
Quốc hơn 1,5 triệu đô la cho chỉ riêng cho mặt hàng vải. Đến hết năm
2004, nhập siêu của Tadjikistan từ Trung Quốc là hơn 50 triệu đôla- đây
là một con số rất ấn tượng đối với một nền kinh tế nhỏ như Tadjikistan.
Sự
bành trướng kinh tế ồ ạt của Trung Quốc vào Tadjikistan bắt đầu chính
từ năm 2004, khi người Trung Quốc hoàn thành việc xây dựng con đường ở
khu vực đèo Kulma. Tuyến đường ô tô hiện đại, có nơi chạy trên độ cao
4.000 m so với mực nước biển, đã làm đơn giản hóa đáng kể các mối quan
hệ kinh tế- chi phí vận tải giữa hai nước giảm gần 3 lần.
Tadjikistan
là nước vẫn duy trì được mô hình “Tadjikpotrbsoiuz” (Liên minh các hợp
tác xã tiêu thụ- kiểu như liên minh các hợp tác xã mua bán của Việt Nam
thời bao cấp –ND) từ thời Xô Viết, họat động theo phương thức là một xí
nghiệp thương mại thống nhất quản lý hàng nghìn cửa hàng và các chợ
trong toàn quốc.
Năm 2005, ngay sau khi thông xe
tuyến đường ô tô nối với Trung Quốc, “Tadjikpotrbsoiuz” đã ký với Trung
Quốc một hợp đồng có giá trị kỷ lục đối với Tadjikistan – hơn 1 tỷ đô la
Theo hợp đồng này, “Tadjikpotrbsoiuz” cam kết
trong vòng 10 năm phải mua của các xí nghiệp tại Tân Cương quần áo, hàng
tiêu dùng, sản phẩm nông nghiệp, vật liệu xây dựng, máy móc và các mặt
hàng khác. Để đổi lại, phía Trung Quốc cam kết xây dựng tại Tadjikistan
các xí nghiệp chế biến và cơ sở hạ tầng mới cho các cửa hàng và các chợ.
Việc mở ra tuyến giao thông thuận lợi và tương
đối rẻ tiền giữa Trung Quốc và Tajikistan đã làm bùng nổ hiện tượng
“buôn bán con thoi” (kiểu như các cửu vạn vận chuyển hàng qua biên giới
như ở ta).
Số lượng người làm việc trong “ ngành”
này – tức là kiếm tiền bằng việc “đánh” hàng nhập từ Trung Quốc – theo
đáng giá sơ bộ là vào khoảng 70.000 người, tức gần 1 % dân số
Tadjikistan.
|
Nhà máy sản xuất nhôm ở Tajikistan,1996. Ảnh: Ratushenko /RIA Novosti |
Ngay
trong năm 2008, theo số liệu thống kê của chính Tadjikistan thì có tới
96% quần áo và đồ điện sinh hoạt bán trên lãnh thổ Tadjikistan có nhãn
hiệu “Made in China”. Từ năm 2002 đến 2009, kim ngạch thương mại giữa
hai nước tăng 100 lần, chủ yếu từ việc nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc.
Thậm chí đến cả bột mì, trước đây chủ yếu nhập từ
Nga và Kazakhstan, cũng không chịu nổi sự cạnh tranh và phải nhường thị
phần cho bột mì Trung Quốc tại nhiều khu vực ở phía đông Tadjikistan.
Đầu tư đổi lấy nguồn tài nguyên thiên nhiên
Đến
năm 2005, Nga đã tái cơ cấu lại nợ - trên thực tế là xóa cho
Tadjikistan một khoản nợ đáng kể để đổi lấy việc bố trí căn cứ quân sự
số 201 và tổ hợp giám sát vũ trụ “Nurek”. Đồng thời Quỹ tiền tệ quốc tế
cũng xóa cho nước này phần lớn khoản nợ vay từ những năm 90.
Tadjikistan,
tuy đã trút được phần lớn gánh nặng nợ nước ngoài nhưng vẫn là một nước
nghèo và buộc phải tìm nguồn tín dụng mới – Cả Nga lẫn các cơ cấu tài
chính quốc tế đều chưa vội vàng cho Tadjikistan vay tiếp các khoản mới.
Vào
thời điểm đó, Trung Quốc không những đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng
giao thông cần thiết kết nối nước này với Tadjikistan, mà còn có đủ thời
gian và cơ sở để khẳng định là chế độ của Tổng thống Rakhmanov sẽ đứng
vững và sẽ tồn tại lâu dài.
Nếu như trước kia
Trung Quốc rất thận trọng và chỉ hạn chế ở các khoản cho vay tín dụng
không lớn, thì sau năm 2005 Bắc Kinh đã trở thành nguồn cung cấp khoản
cho vay chủ yếu cho Dushanbe.
Ngay từ năm 2006,
Trung Quốc cấp cho nước láng giềng Tadjikistan 3 khoản tín dụng lớn đầu
tiên với tổng giá trị hơn 600 triệu đô la. Đến năm 2012, nợ Trung Quốc
đã chiếm 41 % tổng số nợ nước ngoài của Tadjikistan.
Nhìn
bên ngoài, Trung Quốc cung cấp tín dụng cho Tadjikistan mà không kèm
theo bất cứ điều kiện chính trị nào. Giới lãnh đạo Tadjikistan chính vì
thế mà rất hồ hởi nhận các khoản vay từ Trung Quốc, nhất là trong bối
cảnh mà nếu vay từ IMF – thường là bao giờ cũng đi kèm với các điều kiện
ngặt nghèo lẫn các tuyên bố (không khác gì chỉ trích) kiểu “ nước này
cần phải làm sâu sắc thêm tiến trình dân chủ”.
Nhưng
trên thực tế, các khoản tín dụng của Trung Quốc chủ yếu chỉ dành cho
các dự án phục vụ các lợi ích chiến lược của Trung Quốc.
Những
dẫn chứng được dẫn ra ngay sau đây: phần lớn các khoản tiền cho vay
được dùng để xây dựng và cải tạo các tuyến đường bộ và các tuyến giao
thông khác nối các thành phố và khu vực chủ yếu của Tadjikistan với
tuyến đường ô tô về Trung Quốc như đã nói ở trên.
Những
tuyến đường, đường ngầm và tuyến dây tải điện đã trói chặt nền kinh tế
Tadjikistan với nền kinh tế Trung Quốc. Không những thế, một trong điều
kiện chủ yếu để cho vay là việc xây dựng phải do chính các công ty ( nhà
thầu) Trung Quốc đảm nhiệm.
Sự gia tăng mức độ phụ
thuộc về kinh tế, tài chính vào Trung Quốc tất yếu sẽ dẫn đến việc điều
chỉnh lại đường biên giới của Tadjikistan. Tháng 1/2011, Quốc hội
Tadjikistan đã biểu quyết thông qua nghị quyết “cắt” cho Trung Quốc hơn
1.000 km2 ở khu vực dãy núi Sarykolsk ở phía Đông Pamir. Ngay trong
tháng 11 năm đó, khu vực lãnh thổ nói trên đã thuộc quyền tài phán của
Trung Quốc.
Tháng 5/2013, trên các phương tiện đại
chúng xuất hiện các thông tin mâu thuẫn nhau về việc Trung Quốc đã đơn
phương đưa quân chiếm một số khu vực đang tranh chấp ở trên dãy Pamir.
Cũng
xuất hiện các tin đồn là Tadjikistan đã điều tới đây các đơn vị quân
đội và các phương tiện quân sự dưới danh nghĩa tổ chức tập trận. Tuy
nhiên, cả hai nước đã công khai bác bỏ các thông tin nói trên. Ai trên
thực tế kiểm soát các khu vực núi cao khó tiếp cận nói trên- đây vẫn là
một câu hỏi còn bỏ ngỏ cho đến tận bây giờ.
Chỉ
biết rằng sự phụ thuộc này càng lớn về kinh tế của Tadjikistan vào Trung
Quốc đã không cho phép Dushanbe công khai lên tiếng phản đối Bắc Kinh,
thậm chí cả trong trường hợp xuất hiện những phức tạp thực sự trong quan
hệ giữa hai quốc gia.
Đầu tư trực tiếp của Trung
Quốc vào Tadjikistan cho đến nay vẫn rất nhỏ giọt, thấp hơn các khoản mà
Trung Quốc cho vay đến hàng chục lần. Các nhà đầu tư và cung cấp tín
dụng từ Trung Quốc thường cố tránh đầu tư vào các xí nghiệp sản xuất và
chế biến của Tajikistan, nếu như chúng có tiềm năng cạnh tranh với công
nghiệp Trung Quốc.
Nhìn tổng thể, các nhà đầu tư
Trung Quốc chỉ quan râm đến lĩnh vực khai khoáng của Tajikistan. Xí
nghiệp khai thác vàng duy nhất của nước cộng hòa này “ Tadjikistanski
zolotorudnyi combinat” (Liên hợp khai thác vàng Tadjikistan) đã bị công
ty khai thác vàng lớn nhất Trung Quốc là Zijin Mining Group Ltd mua lại
vào năm 2007.
Mỏ chì và kẽm lớn nhất tại Trung Á
là mỏ Altyn-Topkan của Tadjikistan trên khu vực biên giới với Uzbekistan
– cũng đã thuộc về Công ty khai thác mỏ Trung Quốc.
|
Trong căn cứ quân sự số 201 trên lãnh thổ Tadjikistan,2008.Ảnh:X.Gunheev/RIA Novosti |
Trong
những năm gần đây, quan hệ kinh tế Tadjikistan với Trung Quốc được thực
hiện đúng theo mô hình đã được chính đại sứ Tadjikistan tại Trung Quốc
Rashid Alimov công khai thừa nhận: “đầu tư đối lấy nguồn tài nguyên
thiên nhiên”.
Một ví dụ điển hình của mô hình này
là việc Tập đoàn “Tebian Electric Apparatus ” của Trung Quốc xây dựng
nhà máy điện ở Dushanbe để đổi lấy quyền khai thác khoáng sản tại khu
vực Ainhin thuộc Tỉnh Sogdi ở phía bắc Tadjikistan. Trung Quốc khai thác
ở khu vực này than đá, antimon và các kim loại quý khác.
Khu
vực này là nơi tập trung tới 10% trữ lượng antimon trên thế giới – một
loại nguyên liệu không thể thiếu đối ngành công nghiệp kỹ thuật điện
hiện đại. Tập đoàn “Tebian Electric Apparatus” cũng chính là một trong
những tập đoàn sản xuất các mặt hàng điện tử lớn nhất Trung Quốc.
Máy bơm tiền từ Nga vào Trung Quốc
Để
đổi lấy các mặt hàng công nghiệp từ Trung Quốc tất cả các chủng loại,
Tadjikistan chỉ thể cung cấp chủ yếu là nhôm, bông và các khoáng sản
khác. Trong khi đó thì Trung Quốc từ lâu đã giữ vai trò quyết định trong
cả công nghiệp chế biến bông vải cũng như công nghiệp khai thác khoáng
sản của Tadjikisan.
Không dừng lại ở đó, Trung
Quốc không ngừng “lấn sân” trong cả những lĩnh vực vốn vẫn do Nga kiểm
soát. Như năm 2008, Trung Quốc “nẫng tay trên ” của “Rusal” các hợp đồng
xây dựng ở Tadjikistan 2 nhà máy sản xuất nhôm frolua và criolit- những
sản phẩm thiết yếu đối công nghiệp sản xuất nhôm.
Với
2 hợp đồng này, Trung Quốc có thể gián tiếp tác động đến hoạt động của
nhà máy nhôm Tadjikistan- nhà máy xuất khẩu chủ yếu của nước này và là
nhà sản xuất nhôm lớn ở Châu Á.
Trong năm 2013,
xuất khẩu của Tadjikistan vào Trung Quốc chỉ có trị giá 90 triệu đô la,
trong khi nhập khẩu 400 triệu đôla . Để bù đắp thâm hụt thương mại thì
Tadjikistan, nói chính xác hơn là người dân Tadjikistan buộc phải tìm
kiếm các nguồn thu nhập từ nước ngoài.
Chính Trung
Quốc, nói một cách nhẹ nhàng là không quá thiếu hụt lao động. Những nước
Cộng hòa Trung Á thuộc Liên Xô cũ quanh Tadjikistan, vì nhiều lý do
cũng không thể cung cấp việc làm lẫn thu nhập cho người Tadjikistan.
Trong những điều kiện như vậy, nguồn thu đến từ nước Nga.
Ngay
từ đầu thế kỷ XXI, số lượng công dân Tadjikistan, làm việc hợp pháp và
bất hợp pháp tại Nga là vào khoảng từ 450.000 đến 650.000 người.
Từ
đó đến nay, theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới thì
Tadjikistan là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ kiều hối
do người lao động từ nước ngoài chuyển về trong trong GDP. Trong các năm
2008-2010, thu nhập của các “cửu vạn” Tadjikistan gửi về chiếm khoảng
35 đến 49% GDP của Tadjikistan.
Ít nhất 2/3 số tiền
người Tadjikistan làm việc ở nước ngoài chuyển nước về là từ những
người lao động ở Nga. Tại Nga, số lượng người lao động Tadjikistan chỉ
ít hơn người Uzbekistan- công dân của nước Cộng hòa Trung Á đông dân
nhất thuộc Liên Xô cũ (30,24 triệu người –số liệu năm 2013 của Ngân hàng
thế giới-ND).
Theo số liệu của Ngân hàng trung
ương Nga, tổng số tiền chuyển từ Nga về Tadjikistan trong năm 2013 là
hơn 4 tỷ đô la (số tiền chuyển ngược lại từ Tad jikistan vào Nga vào
khoảng nửa tỷ đô la).
Con số thống kê nói trên cho
thấy một điều là nguồn bù đắp khoảng thâm hụt hơn 300 triệu đôla trong
thương mại của Tadjikistan với Trung Quốc lại chính là từ nước Nga.
Nhưng
người lao động Tadjikistan kiếm tiền tại Nga (đóng góp tới 1/3 GDP của
nước này) và số tiền kiếm được đó lại chi tiêu ở Tadjikistan, nơi mà 90%
các loại hàng công nghiệp và các mặt hàng thiết yếu đều có nguồn gốc
Trung Quốc.
Cái “máy bơm này” đã hoạt động thành
công tại Nga gần hai thập kỷ ,- vừa đảm bảo lợi nhuận cho các chủ lao
động ở Nga vì sử dụng nguồn nhân công giá rẻ, vừa đảm bảo cho những
người lao động Tadjikistan một mức sống có thể chấp nhận được bằng cách
dùng khoản thu nhập đó từ Nga mua các mặt hàng giá rẻ của Trung Quốc,
nhưng mặt khác cái “máy bơm”đó đã cung cấp cho ngành công nghiệp đang
phát triển của Trung Quốc một nguồn thu nhập bổ sung đáng kể để lại đầu
tư ra nước ngoài.
Những gì đang diễn ra hiện nay cho thấy trong tương lai ngắn hạn, mô hình kinh tế trên sẽ không có gì thay đổi .