Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015

Trung Quốc âm mưu lập 'chuỗi phòng thủ bán nguyệt'

Trung Quốc âm mưu lập 'chuỗi phòng thủ bán nguyệt' trên Thái Bình Dương

Trung Quốc tích cực bồi đắp và quân sự hóa các đảo tại Biển Đông và Hoa Đông là nhằm hình thành một chuỗi phòng thủ hình bán nguyệt trên biển, kéo dài suốt vùng biển khu vực Đông Á, các chuyên gia nhận định.
bd-4805-1417755991-2557-1422936810.jpg
Hoạt động xây dựng của Trung Quốc ở bãi đá Chữ Thập hôm 14/11. Ảnh: IHS Jane's
Gần đây, Trung Quốc liên tục công bố các hình ảnh xây dựng, bồi đắp tại bãi Chữ Thập trong quần đảo Trường Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trước đó, tạp chí quốc phòng IHS Jane's cũng công bố một loạt ảnh vệ tinh cho thấy các cơ sở hạ tầng trên nhằm mục đích quân sự, với khả năng xây dựng một đường băng dài đến 3.000 m.
Ngoài ra, Bắc Kinh cũng đang đẩy nhanh tốc độ nạo vét, xây dựng đê chắn sóng và các doanh trại ở các đá Gạc Ma, Châu Viên, Gaven, Ken Nan, đá Lạc. Những đá này đều thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Giới phân tích nhận định rằng đằng sau các động thái trên của Trung Quốc là hai ý đồ chiến lược, với mục đích dấn thêm một bước trong việc thít chặt gọng kìm khống chế tại Biển Đông.
Về mặt chính trị, Trung Quốc muốn thông qua việc xây đắp đảo để thay đổi dần hiện trạng tại Trường Sa, từ đó tăng cường các yêu sách chủ quyền vốn không phù hợp với luật pháp quốc tế của mình tại đây.
"Mục đích mà Trung Quốc xây dựng tại bãi Chữ Thập là rất rõ ràng, nhằm ép các nước khác từ bỏ tuyên bố chủ quyền và lãnh thổ của mình", báo cáo của IHS Jane's cho biết.
Phóng viên Bill Hayton thuộc BBC, tác giả của cuốn sách "Biển Đông - cuộc đọ sức tại châu Á" (The South China Sea: The Struggle for Power in Asia), nhận định rằng, hành động trên của Trung Quốc cũng nhằm đối phó với việc Philippines kiện nước này ra Tòa án Trọng tài quốc tế về Luật biển.
"Ngay cả khi tòa án phán quyết các khu vực mà Trung Quốc chiếm lĩnh không phải các đảo phù hợp để con người sinh sống, vì vậy không thể quy vào vùng đặc quyền kinh tế, thì việc các tàu hải quân và lực lượng không quân của Trung Quốc xuất hiện tại đây cũng sẽ thay đổi cục diện chính trị", chuyên gia này nói. "Họ tạo ra sự đã rồi, sau đó ép đối phương phải đàm phán trên điều kiện mới, bất kể căn cứ pháp luật là gì".
Về mặt quân sự, quân đội Trung Quốc được cho là sẽ tận dụng hệ thống đường băng tương lai trên bãi Chữ Thập như bàn đạp để tiến hành các hoạt động phòng thủ trên không, phối hợp với lực lượng hải quân tại khu vực phía nam Biển Đông.
Một số chuyên gia nhận định rằng đây là các bước chuẩn bị của Bắc Kinh để thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông. "Trung Quốc muốn thiết lập ADIZ tại đây. Để làm được như vậy, họ cần phải có khả năng giám sát vùng trời", bà Bonnie Glaser, nghiên cứu viên cao cấp thuộc Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), bình luận.
Tại Diễn đàn Hương Sơn hồi tháng 11/2014, một quan chức cấp cao của quân đội Trung Quốc thừa nhận nước này bồi đắp đảo ở Trường Sa, là để hỗ trợ hoạt động của radar và thu thập tin tình báo.
Ý đồ sâu xa hơn
1535908-main-2522-1422936810.jpg
Trung Quốc đang xây dựng căn cứ quân sự tại đảo Nam Kỷ, cách quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư 300 km. Ảnh: IHS Jane's
Song song với việc bồi đắp đảo tại Biển Đông, Trung Quốc cũng đang tích cực thúc đẩy các hoạt động tương tự tại Hoa Đông. Theo báo cáo mới nhất của IHS Jane's, Bắc Kinh đang xây dựng một căn cứ quân sự tại quần đảo Nam Kỷ thuộc tỉnh Chiết Giang, cách quần đảo Senkaku/Điếu Ngư 300 km. So với căn cứ quân sự của Mỹ tại Okinawa, vị trí của đảo Nam Kỷ gần với quần đảo tranh chấp hơn 100 km.
Theo đó, nước này đã lặp đặt một loạt radar cỡ lớn, cùng hệ thống phát phong điện tại đảo chính Nam Kỷ, đồng thời còn gấp rút xây dựng một sân bay trực thăng, dự kiến sẽ được đưa vào sử dụng vào năm 2016.
Truyền thông Nhật Bản cho rằng các công trình quân sự trên đảo Nam Kỷ là nhằm hai mục đích. Một là nâng cao khả năng ứng phó của quân đội nước này trước nguy cơ xung đột vũ trang diễn ra giữa Trung Quốc với Mỹ và Nhật Bản. Hai là Bắc Kinh muốn tăng cường giám sát hoạt động của các nước liên quan trong ADIZ mà nước này đơn phương thiết lập hồi tháng 11/2013.
Tuy nhiên, một số nhà phân tích nhận định rằng các hoạt động bồi đắp đảo và quân sự hóa của Trung Quốc tại cả Biển Đông và Hoa Đông nằm trong một chiến lược tổng thể, nhằm hình thành một chuỗi phòng thủ hình bán nguyệt trên biển, kéo dài suốt vùng biển khu vực Đông Á.
"Việc hình thành chuỗi đảo hình bán nguyện này rõ ràng sẽ tăng cường chiều sâu chiến lược của Trung Quốc", Financial Times dẫn lời ông Trần Công, nghiên cứu viên hàng đầu của Công ty tư vấn Anbound. "Quá trình quân sự hóa các đảo tại Hoa Đông và Biển Đông không phải là ngẫu nhiên, mà ẩn chứa một chiến lược chuỗi đảo hoàn chỉnh". 
Chuyên gia này cho biết chiến lược chuỗi đảo trên sẽ cải thiện rõ rệt môi trường địa chính trị của Trung Quốc. "Chiến lược này là đối sách thực dụng và tích cực để tạo dựng sức ảnh hưởng của Trung Quốc như một cường quốc trên biển, với địa vị không ai có thể coi nhẹ", ông Trần cho biết.
Ông Rory Medcalf, chuyên gia về an ninh châu Á thuộc Viện nghiên cứu Lowy, cho rằng Bắc Kinh đang muốn đột phá "chuỗi đảo thứ nhất", phân cách Biển Đông, Hoa Đông và Hoàng Hải với Thái Bình Dương, để phá thế bị Mỹ và các nước đồng minh bao vây. 
Thượng tướng Lưu Hoa Thanh, cố phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, từng viết trong hồi ký của mình rằng, "chuỗi đảo thứ nhất" đã hạn chế hầu hết các hoạt động của quân đội và nước này cần tìm cách khống chế chuỗi đảo trên vào thập niên đầu thế kỷ 21. Tướng Lưu được coi là cha đẻ của nền hải quân hiện đại Trung Quốc. 
Khái niệm “chuỗi đảo thứ nhất” và “chuỗi đảo thứ hai” do cố ngoại trưởng Mỹ John Dulles đưa ra vào năm 1951, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, nhằm mục đích kiềm chế Liên Xô và Trung Quốc. 
"Chuỗi đảo thứ hai" bắt đầu từ phía bắc quần đảo Nhật Bản, kéo dài đến đảo Halmahera của Indonesia, trong đó đảo Guam là hạt nhân. Một số giả thuyết cho rằng nếu Mỹ mất ưu thế tuyệt đối trên "chuỗi đảo thứ nhất", thì việc tăng cường liên minh quân sự với Nhật Bản trấn giữ "chuỗi đảo thứ hai" là cấp thiết để duy trì sức ảnh hưởng của Washington tại tây Thái Bình Dương.
Tạp chí quốc phòng ở Tokyo Japan Military Review dẫn lời Saburo Tanaka, chuyên gia quân sự Nhật, cũng nói thêm rằng hoạt động bồi đắp của Trung Quốc ở sáu đảo trên Biển Đông sẽ tạo nên "chuỗi đảo thứ nhất" của nước này, từ đó có thể kiềm tỏa các căn cứ quân sự của Mỹ ở Australia, mối lo ngại chính của quân đội Trung Quốc. Và với các dự án bồi đắp đất, Trung Quốc có khả năng bảo về đường hàng hải cung ứng cho nước này ở phía bắc Eo Malacca, trong khi ngăn chặn được Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ tiến vào Biển Đông từ Biển Celebes.
Chiến lược trên của Trung Quốc được cho là sẽ tác động mạnh đến cục diện địa chính trị tại châu Á - Thái Bình Dương. "Sự hiện diện của các cơ sở quân sự này sẽ chỉ khiến tình hình thêm phần căng thẳng và làm xói mòn niềm tin trong khu vực, vốn tồn tại các tranh chấp chồng chéo và phức tạp", bình luận viên Jeremy Bender của tờ Business Insider cho biết.
Cách tiếp cận trên của Bắc Kinh sẽ khiến các nước liên quan xích lại gần nhau hơn, cũng như hoan nghênh chiến lược xoay trục của Mỹ sớm có những biến chuyển thực tế, như một đối trọng với Trung Quốc trong khu vực. "Hàng năm, chúng tôi đều có các chương trình huấn luyện và tập trận chung với quân đội Mỹ", một quan chức Hải quân Philippines giấu tên cho biết.
Mặt khác, Washington cũng mong muốn Nhật Bản đóng vai trò lớn hơn trong cục diện an ninh khu vực hiện nay, không chỉ trên vấn đề Hoa Đông vốn liên quan trực tiếp đến lợi ích của Tokyo, mà cả trên vấn đề Biển Đông. 
Điều này cũng phù hợp với chiến lược cạnh tranh ảnh hưởng tại Đông Á của chính quyền Thủ tướng Shinzo Abe, nhằm đối phó với sự trỗi dậy không ngừng của Trung Quốc. Tokyo đang thực hiện đường lối ngoại giao tích cực hơn trong quan hệ với các định chế khu vực, đặc biệt thắt chặt quan hệ ngoại giao, hợp tác quân sự và kinh tế với các nước ASEAN khi căng thẳng tại Biển Đông tăng cao.
"Tôi cho rằng các hoạt động của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tại khu vực Biển Đông trong tương lai là hoàn toàn hợp lý", Đô đốc Robert Thomas, chỉ huy Hạm đội Bảy của Mỹ, bình luận.
ghep-3835-1422952642.jpg
Trung Quốc luôn muốn đột phá "chuỗi đảo thứ nhất" (đường đỏ), để tăng cường hoạt động quân sự ra đại dương. Đồ họa: Pentagon
Đức Dương

Chủ Nhật, 1 tháng 2, 2015

Đã đến lúc đưa ra một cái giá cho những hành động sai trái ở Biển Đông


Đã đến lúc đưa ra một cái giá cho những hành động sai trái ở Biển Đông



pix4_120314
Nguồn: Patrick Cronin, “How to Deal with Chinese Assertiveness: It’s Time to Impose Costs“, The National Interest, 4/12/2014.
Biên dịch: Hương Trà | Hiệu đính: Minh Ngọc
Bất kỳ hành động sai trái nào cũng phải trả giá. Đó là lý do Mỹ và các nước đồng minh, đối tác cần xem xét chiến lược áp đặt cái giá phải trả đối với những hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Việc Trung Quốc lại nổi lên là một quốc gia giàu có và đầy sức mạnh là một thực tế. Trong những thập kỷ gần đây, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nước này là chưa từng thấy, từ nền kinh tế đứng thứ 10 thế giới vào năm 1990 vươn lên xếp vị trí thứ 6 vào năm 2001, và trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới vào năm 2010. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – IMF), Trung Quốc hiện đã vượt Mỹ tính theo sức mua tương đương. Với cách tính trên, nền kinh tế của Trung Quốc đã bằng một nửa quy mô nền kinh tế của Mỹ cách đây một thập kỷ. Và quỹ đạo phát triển này đang định hình những giả thiết về tương lai cán cân quyền lực và trật tự của khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Tăng trưởng sụt giảm gần đây của Trung Quốc và những nghi vấn đặt ra về sự ổn định trong tương lai của nước này vẫn chưa làm thay đổi đa số nhận thức về chiều hướng phát triển của Trung Quốc.
Sự hội nhập sâu rộng của Trung Quốc vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu càng làm lộ rõ những khó khăn trong việc gây sức ép đối với Trung Quốc khi nước này vi phạm các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Vấn đề cơ sở hạ tầng là một ví dụ. Cơ sở hạ tầng sẽ dần tái định hình các kết nối kinh tế và an ninh chiến lược của thế kỷ XXI, và năng lực cơ sở hạ tầng của Trung Quốc gần đây đã cho thấy ưu thế vượt trội của nước này. Trong bài phát biểu khai mạc diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (Asia-Pacific Economic Cooperation – APEC), Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tuyên bố về dự án xây dựng tuyến đường, theo đó Trung Quốc sẽ đầu tư khoảng 1.250 tỷ USD ra nước ngoài trong vòng 1 thập kỷ tới, và chi 40 tỷ USD để tái thiết Con đường Tơ lụa cũ trên bộ đồng thời tiến hành xây dựng Con đường Tơ lụa Mới trên Biển. Trước đó, Trung Quốc cũng đã đưa ra đề xuất về việc thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á với số vốn ban đầu trị giá 50 tỷ USD. Giống như Ngân hàng Phát triển Mới (trước đây gọi là Ngân hàng Phát triển BRICS), các kế hoạch trên đang làm suy yếu hệ thống kinh tế quốc tế Bretton Woods với các tổ chức quản lý lỏng lẻo. Như Bộ trưởng Thương mại Ấn Độ Nirmala Sitharaman đã tuyên bố gần đây tại một hội nghị, “Nếu các thể chế của hệ thống Bretton Woods không thể cung cấp tài chính để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho các nền kinh tế mới nổi, thì chúng tôi sẽ phải tìm các giải pháp thay thế khác.”
Trung Quốc đang lấp đầy khoảng trống quyền lực trong lĩnh vực cung cấp vốn phát triển cơ sở hạ tầng. Thay vì phản đối theo bản năng và trông chờ các nước bạn bè như Indonesia, Ấn Độ, hay các nước khác quay mặt với cơ hội trên, biện pháp tốt hơn cho nước Mỹ là cố gắng tạo ra các cơ hội mới thông qua những thể chế hiện hành. Nước này cũng cần củng cố lại các thể chế kinh tế hiện tại như IMF, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á, đồng thời đảm bảo rằng bất kỳ thế chể mới nào ra đời cũng phải tuân thủ các nguyên tắc minh bạch và đã được thống nhất.
Khó khăn của việc Xây dựng Lòng tin
Theo quan điểm của một số nhà phân tích, mối quan hệ Trung-Mỹ nên tập trung vào việc xây dựng lòng tin. Bàn về lòng tin không giống với việc tăng cường lòng tin. Ngay cả các biện pháp xây dựng lòng tin (Confidence-building measures – CBMs) với mục tiêu giảm bớt căng thẳng quân sự cũng không bảo đảm sẽ làm dịu đi những căng thẳng như vậy.
Có thể lấy cuộc gặp thượng đỉnh bên lề hội nghị APEC năm 2014 giữa Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Barack Obama làm ví dụ minh họa. Cuộc gặp diễn ra trong không khí thân mật, nhưng không có bất kỳ thay đổi thực chất nào trong vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, cũng như các vấn đề an ninh phức tạp nhất đang chi phối cuộc cạnh tranh chiến lược ở Châu Á-Thái Bình Dương. Trung Quốc không đưa ra bất kỳ cam kết nào cụ thể hay đồng ý ràng buộc với điều gì. Dù thiếu các biện pháp mang tính thực chất nhưng Mỹ đã nhân nhượng bằng việc cải thiện mối quan hệ quân sự song phương. Có hai biện pháp xây dựng lòng tin đang nhận được rất nhiều sự quan tâm của báo giới, nhưng cùng lắm đây cũng chỉ là các khuôn khổ để từ đó hai bên có thể xây đắp thêm, chứ không phải là những thỏa thuận mới. Biện pháp xây dựng lòng tin về Các Quy tắc Hành xử An toàn khi Va chạm trên Biển và trên Không tại thời điểm này sẽ mở ra các đối thoại quốc phòng về phòng tránh va chạm giữa các tàu ​​trên mặt nước, nhưng hai bên đã không cam kết thêm bất cứ điều gì ngoài những gì đang bị ràng buộc bởi các hiệp ước quốc tế hiện hành. Tất nhiên theo thời gian, khi các cuộc đối thoại này ngày một tiến triển và các phụ lục mới được thêm vào, có lẽ đây sẽ là nền tảng để hai bên dự đoán tốt hơn các hoạt động quân sự của nhau. CBM còn lại về việc Thông báo Các Hoạt động Quân sự Lớn mang tính khuyến khích nhiều hơn là định hướng, và khả năng để nó tạo ra chuyển biến chiến lược quan trọng là hoàn toàn không rõ ràng. Điều tốt nhất có thể đạt được qua hai biện pháp xây dựng lòng tin ở trên là tạo dựng cơ sở cho hợp tác trong tương lai. Điều này cũng giống như việc kêu gọi các bên sớm tiến tới hoàn tất một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông, ngay cả khi Trung Quốc đang tiếp tục xây dựng các đảo nhân tạo và các căn cứ quân sự trên các thực thể ngập nước ở Biển Đông.
Gần đây tại Trung tâm An ninh Mỹ Mới, chúng tôi đã đón tiếp một phái đoàn các sĩ quan và chuyên gia phân tích đến từ Đại học Quốc phòng của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Thừa nhận rằng vẫn chưa có nhiều việc làm thực chất để giảm bớt các căng thẳng trên biển, các khách mời Trung Quốc đã đề nghị chúng tôi đưa ra một danh sách các bước đi thiết thực mà Trung Quốc có thể triển khai nhằm giảm thiểu nguy cơ leo thang căng thẳng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông. Chúng tôi đã đề xuất với họ một số ý tưởng cụ thể – từ việc làm rõ yêu sách đường 9 đoạn, đưa lực lượng cảnh sát biển, bên cạnh lực lượng hải quân, vào các cuộc thảo luận về tránh va chạm trên biển, ký kết một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc, và tránh thực hiện các hành động nguy hiểm xung quanh tàu và máy bay của Mỹ trong Vùng đặc quyền kinh tế của họ. Phía Trung Quốc đã trả lời rằng: “Không, hãy đề xuất những gì thực tế mà chúng tôi có thể làm.” Điều này cho thấy thật khó để chối bỏ suy nghĩ rằng Trung Quốc chỉ muốn thể hiện hình ảnh trỗi dậy hòa bình, chứ không phải việc làm trên thực tế. Trung Quốc không muốn đối đầu với Mỹ, nhưng sẵn sàng lợi dụng sự do dự và thiếu quyết đoán của nước Mỹ. Trung Quốc muốn một “mối quan hệ cường quốc kiểu mới” với Mỹ để buộc Mỹ thừa nhận các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, đứng trên cả lợi ích của các nước láng giềng – mặc dù khi nói đến việc xác định các lợi ích biển của mình Trung Quốc dường như đang mong muốn bành trướng, từ kiểm soát các vùng biển gần tới các tuyến giao thương biển trên phạm vi toàn cầu.
Thích ứng với Trung Quốc, Chứ Không phải Dung dưỡng những Hành vi Sai trái
Nước Mỹ phải thích ứng với một Trung Quốc đang trỗi dậy, nhưng chúng ta không thể dung dưỡng lối hành xử thiếu thận trọng và thậm chí là hung hăng. Việc Trung Quốc ngày càng giàu có là một thực tế, cũng giống như việc nước này đang triển khai mô hình cưỡng ép trên biển. Trung Quốc đãsử dụng các ưu thế sức mạnh để ép buộc các nước láng giềng với mục tiêu thống trị khu vực. Thựcvậy, nước này gần đây đã triển khai mô hình “cưỡng ép tinh vi” tại các vùng biển Châu Á. Bên cạnh việc tham gia vào các cuộc thảo luận kéo dài về một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc haycác biện pháp mới để xây dựng lòng tin, Trung Quốc sử dụng một cách hệ thống các công cụ sức mạnh về ngoại giao nhân dân, pháp lý, và tâm lý để vẽ lại các đường ranh giới hiện nay. Nhìnchung, Trung Quốc đang từng bước thực hiện tham vọng này với chiến thuật cắt lát salami (hay còn gọi là “tằm ăn rỗi” – ND) – chiến thuật ít gây leo thang căng thẳng hoặc kích động phản ứng mạnh mẽ. Với lực lượng cảnh sát biển, chấp pháp và bán quân vượt trội so với các nước láng giềng về cả chất lượng và quy mô, Trung Quốc tương đối dễ dàng thực thi yêu sách đối với những vùng biển thường có tranh chấp này.
Mục tiêu của Trung Quốc là duy trì sự hiện diện mạnh mẽ trên biển với một lực lượng quân sự tối thiểu. Tuy nhiên, việc nước này triển khai lực lượng cảnh sát biển, cơ quan chấp pháp và các lực lượng khác với mô hình quyết đoán hơn đã khiến các nước rất lo lắng và quan ngại. Một Trung Quốc vượt trội về sức mạnh kinh tế lẫn quân sự với quyết tâm thực hiện tham vọng bằng hành động cưỡng ép, nếu thấy cần thiết, thực sự là vấn đề đối với các quốc gia trong khu vực, vốn nghiêng về cách tiếp cận hợp tác mang tính toàn diện, dựa trên luật pháp.
Từ việc tuần tra liên tục các vùng biển liền kề và vùng lãnh hải của Quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư đến tuyên bố Vùng nhận diện Phòng không (Air Defense Identification Zone – ADIZ) cuối tháng11/2013, các tàu và máy bay Trung Quốc đang gia tăng nguy cơ xảy ra những vụ va chạm với Nhật Bản và Mỹ ở Biển Hoa Đông. Trong 2 vụ việc xảy ra vào đầu năm 2014, máy bay SU-27 của Trung Quốc đã tiếp cận máy bay do thám của Nhật Bản ở cự ly chỉ 30 mét. Tương tự như vậy ở Biển Đông, Trung Quốc áp dụng “chiến lược cải bắp” ở Bãi cạn Scarborough, Quần đảo Trường Sa vàQuần đảo Hoàng Sa để mở rộng sự hiện diện trên biển của mình. Những bức ảnh chụp vào tháng 3 cho thấy Trung Quốc đang tiến hành hoạt động cải tạo đất ở Đá Gạc Ma thuộc Quần đảo Trường Sa, cũng như các khu vực khác nhau của Biển Đông, nhằm mục đích tăng cường khả năng triển khai sức mạnh, đồng thời củng cố các yêu sách pháp lý của nước này. Hải quân Việt Nam và Trung Quốc từng giao tranh tại Đá Gạc Ma vào tháng 3 năm 1988 khiến hơn 70 người Việt Nam hy sinh.
Dù không phải chỉ mình Trung Quốc tìm cách thúc đẩy các yêu sách chủ quyền và quyền lợi biển,nhưng duy nhất cách hành xử của nước này đặc biệt mang tính chất leo thang. Đó là lý do tại saotại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đích danh chỉ trích”các hành động đơn phương, gây mất ổn định” của Trung Quốc với các nước láng giềng ven biển.Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong vùng biển tranh chấp ngoài khơi Việt Nam vào tháng 5 năm 2014, sau nhiều tháng triển khai chính sách ngoại giao đồng bộ để cải thiện quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội, thực sự khiến nhiều nhiều nước ở khu vực cảm thấy rất khó hiểu. Hành động trên không chỉ nhắc nhở về sự kiện năm 1974, Trung Quốc đơn phương dùng vũ lực chiếm đoạt Quần đảo Hoàng Sa ở một thời điểm mà Việt Nam đang rất yếu, mà còn làm rõ mức độ quyết đoán màTrung Quốc sẵn sàng áp dụng hiện nay. Trong vụ việc giàn khoan HD-981, khi Việt Nam cố gắng đáp trả bằng cách cân bằng với số lượng tàu mà Trung Quốc triển khai xung quanh giàn khoan, Trung Quốc đều phản ứng bằng cách gia tăng số lượng, chủng loại cũng như chiến thuật của cáctàu.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Quốc phòng Mỹ đã thống kê hơn 1.200 hoạt động quân sự, bán quân sự, pháp lý, kinh tế, ngoại giao và quản lý hành chính mà các bên yêu sách ở Biển Đông đã thực hiện từ năm 1995 tới năm 2013. Ngay cả dựa trên số liệu chưa được phân loại, Tiến sĩ Christopher Yung và Patrick McNulty cho rằng hành động của Trung Quốc đã gia tăng đáng kể mức độ quyết đoán kể từ năm 2009. Trong số 1.200 hoạt động kể trên, Trung Quốc chiếm khoảng 55%,  với mức độ quyết đoán của các động thái tăng vọt từ năm 2009. Các hoạt động quân sự và bán quân sự của nước này cũng đi theo xu hướng tương tự. Người ta dễ dàng nhận thấy Trung Quốc đã tăng nhanh các hoạt động quân sự quyết đoán ở Biển Đông trong vài năm qua, với 62 hoạt động chỉ riêng trong năm 2012. Một thống kê đã phân loại và đầy đủ hơn sẽ cho chúng ta thấy kết quả tương tự, thậm chí còn cho thấy nhiều hành động quyết đoán hơn của Trung Quốc.
Điều mà các quốc gia lo lắng không hẳn là sức mạnh đang tăng lên của Trung Quốc mà chính là cách mà Trung Quốc sẽ sử dụng sức mạnh này. Trung Quốc tuyên bố yêu sách đường chín đoạn ở Biển Đông không dựa trên cơ sở luật pháp đương đại, triển khai giàn khoan nước sâu vào vùng biển tranh chấp gần Quần đảo Hoàng Sa – và sau đó sử dụng chiến thuật đâm va và triển khai tàuchiến của hải quân bảo vệ khu vực hiện diện giàn khoan bất hợp pháp, chiếm đoạt Bãi cạnScarborough từ tay Philippines, cải tạo các thực thể ngập nước thành các đảo nhân tạo có khả năngtrở thành căn cứ quân sự, đơn phương thiết lập Vùng Nhận diện Phòng không ở Biển Hoa Đông như thể một lời hăm dọa, và hành xử nguy hiểm với các tàu và máy bay – tất cả những điều này cùng những hành động khác được xem là một phần trong mô hình cưỡng ép ngày càng tăng mà Trung Quốc đâng thực hiện ở các vùng biển Châu Á, đặc biệt ở Biển Đông và Biển Hoa Đông. Điều này khiến người ta lo ngại rằng Trung Quốc sẽ tiến hành thêm nhiều hoạt động đơn phương để thay đổi nguyên trạng ở các vùng biển, vùng trời và đất liền xung quanh khu vực ngoại vi của nước này. Ấn Độ hiểu rõ rằng các bước đi của Trung Quốc không chỉ giới hạn ở các vùng biển, mà còn ở tất cảkhu vực mà Trung Quốc tin rằng mình có lợi thế hoặc những nơi Bắc Kinh có thể thử nghiệm và tìm thấy cơ hội để triển khai năng lực mới và khôi phục những nỗi oán hận lâu nay của nước này.
Các hoạt động ngoại giao tại những cuộc họp thượng đỉnh giúp củng cố sự trỗi dậy không thể thay đổi của Trung Quốc. Xét ở khía cạnh này, một số lời nói của Trung Quốc có thể có giá trị tượng trưng. Chắc chắn chính sách đối ngoại của ông Tập nhằm mục tiêu bảo vệ 3 lợi ích cốt lõi của Trung Quốc: Đảng Cộng sản Trung Quốc và quyền cai trị của Đảng; chủ quyền lãnh thổ và sự phát triển kinh tế. Những gì mà các tuyên bố tránh đề cập là cách thức cứng rắn mà một Trung Quốc mạnh mẽ và mang đậm màu sắc dân tộc chủ nghĩa đang theo đuổi 3 mục tiêu trên. Ví dụ, trong một bài phát biểu vào tháng 10 năm 2013, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố rằng sẽ nỗ lực hết sức giúp Trung Quốc hiện thực hóa “các mục tiêu thế kỷ” trở thành một quốc gia thịnh vượng và hùng mạnh tương ứng vào các năm 2020 và 2050. Cụ thể, ông Tập cam kết Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi chỉ sốGDP và thu nhập bình quân đầu người vào năm 2021, tròn 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, và hoàn thành “công cuộc phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa” vào dịp kỷ niệmmột trăm năm ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949.
Tuy nhiên, thứ ít được công khai hơn chính là ý định và tham vọng ngày càng lớn của ông Tập vàcác lãnh đạo khác của Trung Quốc về sức mạnh quân sự. Mặc dù ông Tập từng tuyên bố “người Trung Quốc không có gen xâm lược hoặc bá quyền trong máu họ,” nhưng những ý định tương lai của Trung Quốc có thể thay đổi khi sức mạnh của nước này tăng lên. Dĩ nhiên các nước bên ngoài thường diễn giải hành động của Trung Quốc dưới con mắt ít khoan dung và có tính đe dọa nhiều hơn. Đầu tiên, họ cho rằng các hành động của Trung Quốc là nhằm đạt được mục tiêu thống trị khu vực trong tương lai gần và đảm bảo Trung Quốc có thể đáp trả và ngăn chặn các hoạt động can thiệp vào năm 2020. Điều này bao gồm không chỉ giới hạn trong việc làm nản chí và cản trở Mỹ hỗ trợ Đài Loan trong trường hợp xảy một cuộc khủng hoảng giữa hai bờ eo biển. Dưới sự lãnh đạo của ông Tập, Trung Quốc tìm cách đạt được mục tiêu này bằng cách tận dụng tất cả các ưu thế sức mạnh – cải thiện năng lực chống tiếp cận và chống can thiệp, kết hợp với hoạt động tuyên truyền,đấu tranh pháp lý và các công cụ kinh tế. Thứ hai, khu vực thường coi tham vọng của Trung Quốc làmột nỗ lực hướng tới ngôi vị bá quyền ở Châu Á-Thái Bình Dương vào giữa thế kỷ. Mục tiêu nàymơ hồ hơn nhiều và liên quan đến học thuyết vẫn chưa định hình là hiện thực hóa “Giấc mơ TrungHoa”.
Những Hành động Sai trái đều phải Chịu Hậu quả
Bất kỳ hành động sai trái nào cũng phải trả giá. Đó là lý do Mỹ và các nước đồng minh, đối tác cần xem xét chiến lược áp đặt cái giá phải trả. Điều này đòi hỏi đi vượt ra ngoài khuôn khổ các khái niệm thông thường về răn đe để hướng tới các khái niệm khuyên răn và bắt buộc – những cách thức làm tăng thêm cái giá phải trả cho lối hành xử quyết đoán và khuyến khích hợp tác. Cái giá mà khu vực thường dựa vào là hậu quả về mặt danh tiếng. Chúng ta sử dụng các diễn đàn ngoại giao như Diễn đàn ASEAN để bày tỏ sự không tán thành chung. Không may là, cái giá về danh tiếng không đủ mạnh để ngăn chặn một chiến lược khôn ngoan để dần hiện thực hóa tham vọng chủ quyền. Chúng ta cần đưa ra một cách tiếp cận toàn diện với đủ các ưu thế sức mạnh để có thể trừng phạt hành vi sai trái và tán thưởng lối hành xử đẹp. Nếu không làm được điều này, chúng ta sẽ phải đối mặt với ngày càng nhiều các hành vi cưỡng ép có tính toán của Trung Quốc.
Quan điểm của Chính phủ Mỹ từ trước đến nay đã khá nhất quán dưới sức ép và theo thời gian. Nói chung, Mỹ tuân thủ nguyên tắc không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền nhưng quan tâm đến cách hành xử của các bên, phản đối mạnh mẽ việc đơn phương thay đổi nguyên trạng thông qua hành vi cưỡng ép hoặc sử dụng vũ lực, đồng thời tích cực ủng hộ việc giải quyết hòa bình các tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế. Gần đây, chính quyền Mỹ đã đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ hơn và sẵn sàng thể hiện sức mạnh một cách có chọn lọc. Tuy nhiên, cách tiếp cận mang tínhnguyên tắc trên đây thực sự không đem lại hiệu quả.
Như vậy, câu hỏi mà những người chỉ thích đạt được các thỏa thuận kiểu mẫu số chung nhỏ nhất không trả lời được đó là: Hậu quả sẽ là gì nếu cứ để các hành vi sai trái không bị trừng phạt? Cộng đồng quốc tế cần làm gì với những nước có hành vi khiêu khích và gây bất ổn trên biển? Một số người cho rằng Trung Quốc đã tự tạo ra án phạt cho mình khi đe dọa cả khu vực, nhưng họ đã không nhận ra một thực tế rằng Trung Quốc đang tạo ra những hiện trạng mới trên biển, đất liền vàbầu trời ở Biển Đông và Biển Hoa Đông. Trong khi cần tránh những quan điểm cực đoan gây leo thang xung đột hoặc không làm gì cả, rõ ràng Mỹ và các đồng minh, đối tác cần phải suy nghĩ một cách thấu đáo về một loạt các biện pháp đối phó để có thể hình thành một chiến lược phối hợp chống lại mô hình cưỡng ép của Trung Quốc.
Các Biện pháp để Áp đặt Giá Phải trả
Có ít nhất bốn biện pháp hoặc hành động đối phó có thể tạo thành một phần của chiến lược trên.Chúng ta có thể phân các biện pháp đối phó thành 2 loại: quân sự hoặc phi quân sự. Biện phápquân sự liên quan đến sự hiện diện, các hoạt động, sự hiện đại hóa và các biện pháp khác nhằmkhai thác điểm yếu an ninh của đối phương và xây dựng năng lực cho các đối tác. Biện pháp phi quân sự bao gồm các biện pháp về thông tin, ngoại giao và kinh tế. Các loại giá phải trả phải lần lượt được đưa vào một chiến lược toàn diện.
Về mặt quân sự, Mỹ đang thực hiện một số biện pháp để cải thiện vị thế quân sự và sự hiện diện lâu dài của nước này ở Châu Á-Thái Bình Dương. Chính sách tái cân bằng của Mỹ dựa trên nền tảng của sự hiện diện mạnh mẽ, phân bổ đồng đều về mặt địa lý, bền bỉ trong quyết tâm chính trị là rất quan trọng để chứng minh cam kết lâu dài của Mỹ đối với việc bảo vệ các tài sản chung toàn cầu ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.
Kể từ khi Philippines đóng cửa các căn cứ Mỹ ở nước này vào đầu những năm 1990, Singapore trở thành trung tâm hậu cần rất quan trọng đối với Hải quân Mỹ. Gần đây, Singapore đã gợi ý cho phép Hải quân Mỹ đồn trú bốn tàu chiến đấu ven biển ở nước này. Chiếc tàu thứ 2 trong số những tàu chiến này sẽ sớm được triển khai tới Singapore. Là một phần trong kế hoạch mới nhất nhằm tái bố trí lực lượng Mỹ ở Nhật Bản, hai nước đang cải thiện năng lực phối hợp tác chiến và năng lực xây dựng các căn cứ chung cũng đồng thời cố gắng giảm thiểu sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Okinawa để tăng thêm sự ổn định chính trị cho việc duy trì căn cứ của Mỹ tại đây. Chính quyền Abe cũngđang thúc đẩy kế hoạch di dời Căn cứ không quân Futenma của Thủy quân lục chiến Mỹ, kết quả làMỹ sẽ rút khoảng 9.000 lính thủy đánh bộ khỏi Nhật Bản và chuyển 5.000 lính trong số này tớiGuam. Tuy nhiên, kết quả cuộc bầu cử mới đây ở Okinawa có thể sẽ tạo ra những phức tạp mớitrong kế hoạch di dời căn cứ không quân Futenma.
Năm 2015, người ta hy vọng Mỹ sẽ công bố thêm về tiến độ cũng như phạm vi của kế hoạch tăng cường hiện diện quân sự tại Guam. Trong một thập kỷ vừa qua, Mỹ đã triển khai các máy bay ném bom hiện đại và ba tàu ngầm đến Guam, thậm chí việc này còn diễn ra trước tuyên bố năm 2011 về kế hoạch dịch chuyển lực lượng hải quân và không quân ở Châu Á-Thái Bình Dương. Với tuyên bố trên, Mỹ quyết định phân bổ lại lực lượng hải quân và không quân giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, ưu tiên khí tài và nguồn lực hơn cho khu vực Thái Bình Dương theo tỷ lệ 60:40, thay vì tỷ lệ 50:50 như trước đây. Tất nhiên, đây có thể là một phần trong tổng thể cơ cấu lực lượng nhỏ hơn,đòi hỏi Mỹ phải duy trì căn cứ ở nước ngoài cũng như đẩy mạnh hợp tác với các nước đồng minh và đối tác. Một Quốc hội mới do đảng Cộng hòa kiểm soát có thể sẽ phối hợp tốt với chính quyền để kết thúc chương trình bảo lưu ngân sách, qua đó giảm bớt áp lực của việc cắt giảm ngân sách quốc phòng của nước này.
Tại Philippines, Mỹ đã đàm phán về thỏa thuận tăng cường hợp tác quốc phòng, qua đó hình thànhmột khuôn khổ pháp lý cho sự hiện diện luân phiên của quân đội Mỹ cũng như các hợp tác quốc phòng tăng cường khác. Một loạt lựa chọn được đưa ra, bao gồm bố trí trang thiết bị, hỗ trợ nâng cấp một cơ sở hải quân mới ở Palawan hướng ra Biển Đông, và triển khai luân phiên một phi đội máy bay tới Philippines thông qua các nhiệm vụ huấn luyện và diễn tập thường xuyên.
Đồng minh của Mỹ là Úc cũng đồng ý cho Mỹ triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ trên cơ sở luân phiên tới căn cứ Darwin ở miền bắc nước này. Lực lượng luân phiên này cho phép thực hiện nhiều hơn các hoạt động huấn luyện đổ bộ song phương và đa phương, đặc biệt là, hoạt động huấn luyện trên không tại Căn cứ Không quân Bradshaw. Ngoài ra, chính phủ Úc dưới thời Thủ tướng Tony Abbott cũng khá quan tâm đến việc nghiên cứu những hình thức hợp tác mới trong tương lai, baogồm khả năng cho phép hải quân Mỹ sử dụng căn cứ HMAS Stirling, gần thành phố Perth, làm cảng nhà hoặc để Mỹ sử dụng quần đảo Cocos của Úc để tiến hành các nhiệm vụ tình báo, giám sát vàdo thám bằng thiết bị bay không người lái. Những ý tưởng trên – cùng hình thức hợp tác ba bên trên biển giữa Nhật Bản, Úc và Mỹ hay giữa Úc, Ấn Độ và Mỹ, có thể sẽ được nêu rõ trong sách trắng quốc phòng mới của chính quyền Abbott dự định công bố vào nửa đầu năm 2015.
Biện pháp áp đặt giá phải trả thứ hai đối với các hành vi sai trái, ngoài ra còn giúp củng cố các lựa chọn quân sự, đó là tiến hành thêm nhiều hoạt động quân sự với các nước đối tác. Mỹ đã thực hiệnđiều này khá tốt và hiện tại cần tăng thêm các cuộc tập trận với không chỉ các nước đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan (cần nhìn xa hơn cuộc khủng hoảng chính trị hiện nay ởThái Lan) và Úc, mà còn với cả các đối tác mới như Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Ấn Độ. Mỹ cũng từng phô diễn sức mạnh, như sau khi Trung Quốc tuyên bố thiết lập ADIZ ở Biển Hoa Đông vào tháng 11 năm 2013, Mỹ đã triển khai máy bay ném bom B-52 bay qua khu vực này, hay trong cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Philippines ở Bãi cạn Scarborough năm 2012, Mỹ cũng đã điều động một tàu ngầm tới Manila.
Biện pháp áp đặt giá phải trả thứ ba, đồng thời giúp chuẩn bị ngăn chặn các hành vi cưỡng ép trên biển, đó là khai thác điểm yếu và dễ bị tổn thương của quốc gia khiêu khích để gây ra một cái giá về quân sự. Cách tiếp cận này liên quan đến việc hiện đại hóa quân sự hoặc các bước đi khác để làmlộ rõ điểm yếu an ninh của đối phương. Một số điểm yếu khiến Trung Quốc dễ bị tổn thương đó là nước này chưa thể kiểm soát các eo biển hẹp, bị đe dọa bởi năng lực tác chiến chống ngầm vượt trội của Mỹ, và phải tập trung dàn trải vào nhiều khu vực địa lý.
Với điểm yếu tương đối của Trung Quốc trong năng lực tác chiến chống ngầm, Mỹ và các nướcđồng minh, đối tác có thể đầu tư nhiều hơn nữa vào hoạt động của tàu ngầm, và trong dài hạn làmua sắm tàu ngầm, buộc Trung Quốc phải tập trung nhiều nguồn lực hơn để khắc phục điểm yếu này. Một cách khác để khai thác những điểm yếu của PLA là tạo ra những mối đe dọa về tên lửa và các mối đe dọa bất đối xứng khác, dù Trung Quốc đã đầu tư vào xây dựng các hệ thống tạo ra cái được gọi là năng lực chống tiếp cận và chống can thiệp. Quân đội Trung Quốc rõ ràng coi tên lửa hành trình, bên cạnh các chương trình tên lửa đạn đạo chống tàu, là công cụ phòng thủ hiệu quả để buộc quân đội Mỹ phải tránh xa các vùng biển của nước này. Nhưng nếu Mỹ thay thế các đầu đạn tên lửa hiện nay và trang bị những thiết bị mang nhiều đầu đạn tự dẫn cho máy bay không người lái,thì đây sẽ là mối đe dọa rất lớn đối với các lực lượng của Trung Quốc, buộc nước này phải đầu tư nhiều hơn cho năng lực phòng không và phòng thủ tên lửa trên đất liền và trên biển. Tương tự nhưvậy, các khái niệm tác chiến Không-Biển của Mỹ có khả năng buộc Trung Quốc phải tập trung vào năng lực ngăn chặn ngay cả khi khái niệm này chưa được chứng thực, thông qua hay triển khai. Tất nhiên, các biện pháp trên không phải không có rủi ro và không gây tổn thất cho Mỹ, dù đối với uy tíncủa Mỹ với tư cách là người ủng hộ việc giải quyết hòa bình tranh chấp hay đối với nguy cơ leo thang xung đột.
Thông thường về mặt chính trị, rất dễ để các nhà lãnh đạo nói tuyên bố không khoan nhượng đối với việc sử dụng vũ lực. Đó là lý do tại sao những thách thức “vùng xám” như chiến thuật cưỡng éptrên biển rất khó để đối phó: Bởi chiến thuật này ít khi tạo nên một tình huống rõ rệt đòi hỏi các bên phải đưa ra một phản ứng dứt khoát. Bản Hướng dẫn quốc phòng mới của Nhật Bản kêu gọi cácphản ứng “thông suốt” của toàn bộ chính phủ trước các vụ việc như vậy; Thủ tướng Hàn Quốc Chung Hong-won gần đây nói về “xiết chặt tối đa an ninh biển” để ngăn chặn các hành động khiêu khích trong tương lai của Bắc Triều Tiên; và Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Manohar Parrikar kêu gọicuộc chiến không khoan nhượng với chủ nghĩa khủng bố cho thấy đôi rằng đôi lúc người ta có thể làm rơi một cái ly, nhưng họ không bao giờ đánh rơi một đứa trẻ. Nhưng, có lẽ bản chất của những thách thức ở cường độ thấp và trái với mô thức thông thường này khiến người ta không thể xem như trường hợp của những đứa trẻ. Và rồi đến một lúc nào đó bạn sẽ dần bị lấn át là mối lo ngại chính của Lực lượng Tuần duyên Nhật Bản quy mô hạn chế nhưng tinh nhuệ.
Biện pháp áp đặt cái giá phải trả thứ tư về quân sự, ít nhất là gián tiếp, đó là tăng cường năng lựccho các nước đồng minh và đối tác để họ tự giúp chính mình. Điều này có thể thực hiện dưới hình thức đối thoại chiến lược sâu rộng hơn, chuyển giao nghiệp vụ chuyên môn và đào tạo, đặc biệt là trang bị các loại khí tài và thiết bị. Cách thức này có thể áp dụng đặc biệt với những nước bị áp đảo về sức mạnh so với lực lượng quân sự, cảnh sát biển, chấp pháp ngày càng lớn và hiện đại của Trung Quốc. Việc Mỹ chuyển giao cho Philippines một số tàu tuần duyên cũ, và Manila đã biên chế những tàu này vào lực lượng hải quân khiêm tốn của mình, là ví dụ điển hình cho phương thức này; tương tự như vậy Nhật Bản đã đề nghị cung cấp một số tàu tuần tra cho Philippines và Việt Nam đểhai nước có thể tăng cường năng lực bảo vệ bờ biển. Vì Nhật Bản tài trợ những hoạt động này trên danh nghĩa hỗ trợ trực tiếp nước ngoài mang tính chiến lược, người ta có thể coi đây vừa là công cụ kinh tế vừa là công cụ quân sự để gián tiếp áp đặt một cái giá cho Trung Quốc khi hành xử quyết đoán trên biển.
Một biện pháp khác để xây dựng năng lực cho các đối tác, thể hiện qua việc chuyển giao tàu tuần tra của Nhật Bản, là thúc đẩy mạng lưới đang mở rộng về hợp tác an ninh nội khối-Châu Á. Theo đó,khi hải quân của Việt Nam tiếp nhận sáu tàu ngầm diesel lớp Kilo từ Nga, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ có thể hỗ trợ bằng việc chuyển giao nghiệp vụ chuyên môn và giúp đào tạo kỹ năng sử dụng tàu ngầmcho Việt Nam. Xét trong khu vực, Mỹ có thể hợp tác với các nước đồng minh và đối tác phù hợp tạo ra một môi trường minh bạch bằng cách hình thành một cơ chế tình báo, giám sát và do thám(Intelligence, surveillance and reconnaissance – ISR) đưa mọi hành động – từ các chiến thuật đâmva cho tới hoạt động cải tạo đất ở các thực thể tranh chấp hoặc sự di chuyển của giàn khoan trongcác vùng biển tranh chấp – lên mạng internet. Cơ chế này có thể giúp các nước chuẩn bị ứng phóvới thảm họa thiên nhiên, đồng thời dễ dàng hợp tác và chia sẻ về tình hình hoạt động chung. Ngay cả những nước đồng minh sở hữu công nghệ cao và được trang bị tốt, như Nhật Bản, cũng có thểhưởng lợi từ các chương trình đào tạo thích hợp, như chương trình đào tạo gần đây của Lực lượng Phòng vệ Mặt đất đối với hoạt động đổ bộ.
Có rất nhiều công cụ chính sách để áp đặt cái giá phải trả mà không liên quan trực tiếp đến sự hiện diện, hoạt động và bố trí quân sự. Công cụ phi quân sự để áp đặt cái giá phải trả chủ yếu về mặt thông tin có thể phân loại như sau: áp đặt cái giả phải về uy tín rất cụ thể (chẳng hạn thông qua cơ chế ISR để công khai các hành động khiêu khích); tạo một cơ chế chia sẻ thông tin cho các hoạt động liên minh có thể có; và đóng góp tạo dựng một thông điệp tích cực rằng mục đích chính trị của Mỹ và các nước đồng minh không phải là xung đột và thậm chí không phải đối đầu nếu điều này có thể tránh được. Đúng hơn cần xác lập một ranh giới đỏ cho những hành vi sai trái và thuyết phục các bên khác không đơn phương thay đổi nguyên trạng bằng cưỡng ép hoặc vũ lực. Cứ cho là hiện trạng vẫn chưa được xác định rõ, nhưng với tư cách là cường quốc lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc phải có trách nhiệm thể hiện sự kiềm chế và thúc đẩy các hợp tác. Ở Biển Hoa Đông,cả Trung Quốc và Nhật Bản đều phải kiềm chế và chứng minh sự ngôn khéo chính trị bằng các biện pháp xây dựng lòng tin, tránh leo thang căng thẳng và hạn chế những tính toán sai lầm.
Ở Biển Đông và toàn bộ khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, chúng ta cần xây dựng một bức tranhhoạt động chung. Tôi đang đề cập đến việc phổ biến thông tin rộng rãi hơn để thúc đẩy việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông hay ở toàn khu vực. Các vùng chung trên biển và trên không, có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu, đang bị đe dọa. Việc truyền tải thông tin thành công phải giúp đông đảo mọi người hiểu điều gì đang diễn ra ở Biển Hoa Đông, Biển Đông và xa hơn thế nữa, bởi thậm chí ngay một số nhà phân tích quốc phòng dày dạn kinh nghiệm ở Mỹ đôi khi cũng không thể đánh giá được những thay đổi nhỏ dần dần sẽ làm thay đổi hoàn toàncán cân quyền lực và trật tự khu vực như thế nào. Với từng rạn đá một, cả một trật tự cũng có thểsụp đổ. Bên cạnh đó, hoạt động thông tin giúp làm rõ cách Trung Quốc sử dụng một loạt các công cụ chính sách toàn diện để mở rộng ảnh hưởng, cố gắng triển khai ảnh hưởng này và kiểm soát hành chính đối với cả hai vùng biển.
Tóm lại, chúng ta cần suy xét kỹ lưỡng về các điểm mạnh và điểm yếu của Trung Quốc, xác địnhnhững lợi thế tốt nhất của chúng ta, và sau đó triển khai các chính sách tận dụng những ưu thế đó.Khi xem xét những biện pháp này, chúng ta cần phải duy trì sự tương xứng giữa các biện pháp áp dụng và những hành vi cưỡng ép, đồng thời cần chú ý đến mục tiêu chính trị lớn hơn đó là dung hòa một Trung Quốc đang trỗi dậy vào một thể chế mở, dựa trên luật pháp. Ngoài việc không nên tự lừa dối rằng sẽ không có rủi ro, không có lý do gì mà chúng ta lại không tìm ra được biện pháp không đối đầu để thuyết phục Trung Quốc tránh lối hành xử thiếu thận trọng. Nhưng một điều có thể thấy là: Những thách thức vùng xám ở Ấn Độ-Thái Bình Dương không thể tự biến mất trong tương lai gần, và càng không thể xảy ra nếu thiếu những hành động đáp trả phù hợp đến từ các quốc gia có năng lực nhất trong khu vực.
Patrick M. Cronin là Cố vấn cấp cao và Giám đốc của Chương trình An ninh Châu Á-Thái Bình Dương tại Trung tâm An ninh Mỹ Mới. 
Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông

Bối cảnh chính trị đang thay đổi của Đài Loan


Bối cảnh chính trị đang thay đổi của Đài Loan



taiwan election
Nguồn: Fu-Kuo Liu, “Taiwan’s shifting political landscape,” East Asia Forum, 18/01/2015.
Biên dịch: Phạm Trang Nhung | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Kết quả cuộc bầu cử chính quyền địa phương của Đài Loan diễn ra hồi tháng 11 năm ngoái là một bất ngờ lớn không chỉ với riêng người dân Đài Loan.[1] Quốc Dân Đảng cầm quyền đã bị đánh bại với mức chênh lệch chưa từng có. Kết quả này hoàn toàn trái ngược với kết quả của cuộc bầu cử Tổng thống năm 2012, khi Quốc Dân Đảng giành thắng lợi. Trong các cuộc bầu cử thị trưởng thành phố, Quốc Dân Đảng chỉ giành thắng lợi ở 1 trong số 6 thành phố trực thuộc trung ương và 5 trong số 16 thành phố và huyện trực thuộc tỉnh. Kết quả này đã làm thay đổi đáng kể bối cảnh chính trị của Đài Loan. Nhưng không nên xem đây là một cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan.
Trong khi phần lớn các nghiên cứu được tiến hành trước kỳ bầu cử đều dự đoán rằng Quốc Dân Đảng có khả năng thất bại, không có nghiên cứu nào tính đến một thất bại ở quy mô như vậy. Nhiều người đang tự hỏi tại sao chính phủ cầm quyền lại có thể bị đánh bại thảm hại đến vậy. Quan trọng là kết quả này đã phá vỡ mô hình các căn cứ truyền thống của họ trong chính quyền cấp địa phương tại Đài Loan. Nó có thể ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc bầu cử tổng thống năm 2016 và có khả năng dẫn đến việc thay đổi lộ trình quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan vốn đang phát triển rực rỡ.
Tổng thống Mã Anh Cửu đã từ chức Chủ tịch Quốc Dân Đảng ngay sau khi có kết quả bầu cử, để lại đảng này trong hỗn loạn. Việc ông Mã không được lòng dân đã ảnh hưởng xấu đến toàn đảng trong chiến dịch. Chính quyền của ông được cho là không quyết đoán, thất thường, thiếu hiệu quả, yếu kém, thiếu động lực, và thiển cận. Hai nhóm cử tri dao động[2] quan trọng có vai trò quyết định trong cuộc bầu cử này là những người ủng hộ Quốc Dân Đảng thất vọng tràn trề đã chọn không đi bầu cử và các cử tri trẻ tuổi không kiên định hóa ra lại đi bầu cử với số lượng lớn chưa từng thấy.
Phong trào Hoa hướng dương, ban đầu là một cuộc biểu tình của sinh viên vào tháng 3 năm 2014, phản ánh rõ sự quan tâm của công chúng đối với tương lai của đất nước và tiến trình quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan trong tương lai. Năm ngoái chính quyền đã mắc sai lầm trong việc xử lý phong trào chiếm lĩnh Lập pháp viện (tức Quốc hội – NBT) của sinh viên diễn ra trong hơn một tháng. Tệ hơn, chính phủ lại không chủ động đáp lại yêu cầu của giới sinh viên về một quy trình minh bạch và hợp hiến để xem xét kỹ lưỡng các thỏa thuận giữa hai bờ eo biển Đài Loan.[3] Việc Lập pháp viện quyết định không phê chuẩn Hiệp định Thương mại Dịch vụ xuyên eo biển (CSSTA) giữa Trung Quốc và Đài Loan được diễn giải là một dấu hiệu rõ rệt thể hiện thái độ bài trừ Trung Quốc ngày một sâu sắc trong xã hội Đài Loan.
Tuy nhiên, mấu chốt của thế bế tắc về chính trị lại là sự đối đầu giữa Tổng thống Mã Anh Cửu và Viện trưởng Lập pháp viện Vương Kim Bình (Wang Jin-pyng), cũng là Phó Chủ tịch Quốc Dân Đảng. Mặc dù Quốc Dân Đảng chiếm đa số ghế trong sáu năm qua, nhưng phần lớn các nỗ lực chính sách của ông Mã lại bị tê liệt tại Lập pháp viện. Xu hướng tránh né sự giám sát của cơ quan lập pháp đối với các thỏa thuận xuyên eo biển của ông Mã cho thấy các nhà lập pháp vốn không hài lòng với các biện pháp của ông đã tẩy chay các dự luật. Những người ủng hộ Quốc Dân Đảng đã thất vọng với sự lãnh đạo không hiệu quả và yếu kém của ông Mã cũng như đảng của ông. Cuộc bầu cử này rõ ràng là một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với chính quyền của ông Mã.
Bối cảnh chính trị Đài Loan luôn rất nhạy cảm với quan hệ giữa Đài Loan và Trung Quốc cũng như với an ninh khu vực. Dù quyết định lựa chọn Dân Tiến Đảng (DPP) của các cử tri dao động không nhất thiết mang tính lâu dài thì nó vẫn làm tương lai quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan càng thêm phần khó dự đoán.
Theo sau thất bại của Quốc Dân Đảng, Bắc Kinh đã nỗ lực tìm hiểu xem điều gì đang thực sự diễn ra ở Đài Loan và đang tự hỏi liệu Trung Quốc có nên thay đổi lộ trình hiện tại, đặc trưng bởi chính sách quan hệ tương đối ôn hòa, hay không. Tương tự, chính phủ Mỹ cũng rất ngạc nhiên khi biết ông Mã lại trở thành lãnh đạo ít được lòng cử tri đến thế nhưng đã từ chối đưa ra bất cứ bình luận cụ thể nào về tương lai quan hệ Đài-Trung. Mỹ cũng nhấn mạnh rằng nước này vẫn tiếp tục khuyến khích hai bên cải thiện quan hệ.
Tất cả những điều này đã làm một số nhà bình luận đưa ra ý kiến rằng cuộc bầu cử về bản chất là một cuộc trưng cầu dân ý về quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan. Nhưng đây là một sai lầm. Cuộc bầu cử ở cấp địa phương và mối quan hệ giữa hai bên đã không được đề cập tới trong suốt chiến dịch. Ngay cả DPP cũng nhanh chóng chứng tỏ rằng việc diễn giải cuộc bầu cử là một cuộc trưng cầu dân ý về chính sách với Đại lục của Quốc Dân Đảng là sai lầm. Không nên diễn giải kết quả bầu cử là một thất bại của Quốc Dân Đảng hay của Trung Quốc trong chính sách quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan.
Một số người lo ngại về xu hướng gia tăng của thái độ bài trừ Trung Quốc nổi lên trong người dân Đài Loan. Đúng là những thay đổi chính trị hiện tại có thể làm quan hệ Đài Loan – Trung Quốc càng khó dự đoán hơn. Để thuyết phục các cử tri rằng mình xứng đáng với phiếu bầu của họ, DPP phải cam kết tìm ra tiếng nói chung với Trung Quốc trong vài tháng tới. Cho đến nay, đây chính là thách thức lớn nhất đối với chính đảng đi theo đường lối độc lập này cũng như với các lãnh đạo của nó.
Thất bại của Quốc Đân Đảng đã đặt dấu chấm hết cho đường lối mang tính biệt lập (exclusionist – tức không lắng nghe ý kiến phản biện – NBT) của ông Mã trong việc thực thi quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan. Nhưng dù thất bại này là một đòn tấn công nghiêm trọng vào Quốc Dân Đảng và nhuệ khí của chính quyền đảng này, nó không có nghĩa là chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống và bầu cử toàn diện năm 2016 là ngoài tầm với. Quốc Dân Đảng sẽ nhanh chóng bầu ra chủ tịch mới để lãnh đạo đảng vượt qua khó khăn. Câu hỏi lớn hiện nay không phải là Bắc Kinh và Đài Bắc nên nhanh chóng tiến về phía trước ra sao mà là làm thế nào các nhà lãnh đạo Đài Loan có thể thuyết phục được người dân ủng hộ sự phát triển kinh tế giữa hai bên hơn nữa.
Fu-Kuo Liu (Lưu Phục Quốc) là giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế, Đại học Chính trị Quốc gia, Đài Loan.
———————-
[1] Khái quát về phân cấp hành chính Đài Loan: Trung Hoa Dân Quốc chia ra 2 tỉnh [province] là Đài Loan (tức đảo chính, gồm 3 thị [city] tức thành phố cấp tỉnh và 11 huyện [county]) và Phúc Kiến (gồm 2 huyện Liên Giang và Kim Môn, không có thị), và 6 trực hạt thị [municipality] (thành phố trực thuộc trung ương: Đài Bắc, Tân Bắc, Đào Viên [mới chuyển từ huyện lên trực hạt thị cuối năm ngoái], Đài Trung, Đài Nam, và Cao Hùng. Trực hạt thị và thị cấp tỉnh chia thành khu. Huyện chia thành thị cấp huyện, trấn và hương (dưới hương là thôn). Khu, thị cấp huyện, trấn chia thành lý. Lý và thôn chia thành lân, bé nhất. Như vậy bầu cử sẽ bầu các chức danh đứng đầu 6 trực hạt thị, 3 thị cấp tỉnh, và 13 huyện, chứ không diễn ra ở cấp tỉnh – NHĐ.
[2] Swinging voters – tức  các cử tri không thường ủng hộ đảng nào và dao động, do đó quyết định của họ tại thùng phiếu có thể tác động tới kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử – ND
[3] Các sinh viên bày tỏ sự phản đối việc ký kết và thông qua Hiệp định Thương mại Dịch vụ xuyên eo biển giữa Đài Loan và Trung Quốc của Quốc Dân Đảng cầm quyền tại Lập pháp viện mà không cần xem xét những điều khoản theo như thỏa hiệp trước đây của hai chính đảng là Quốc Dân Đảng và Dân Tiến Đảng – ND.
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/02/02/boi-canh-chinh-tri-dang-thay-doi-cua-dai-loan/#sthash.kIlx6Ang.dpuf