Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2014

Trung Quốc bắt nhân viên cứu trợ Mỹ

Trung Quốc bắt nhân viên cứu trợ Mỹ

Peter Hahn, 74 tuổi, một nhân viên cứu trợ người Mỹ gốc Triều Tiên, bị Trung Quốc bắt giữ tại thành phố giáp biên giới Triều Tiên.
 
han-2031-1419044540.jpg
Ông Peter Hahn. Ảnh: Iamkoream
Ông Hahn bị nhà chức trách Bắc Kinh bắt với cáo buộc biển thủ của công và sở hữu các hóa đơn giả, AP dẫn tin từ Zhang Peihong, luật sư của ông này cho biết hôm qua.
Luật sư Zhang được các công tố viên ở tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc báo về việc bắt giữ ông Hahn. Zhang cho rằng cáo buộc dường như là một cái cớ để buộc tội ông Hahn vì cung cấp thực phẩm cho trẻ em Triều Tiên.
Hahn là người phụ trách trường dạy nghề cho thiếu niên Trung Quốc và Triều Tiên ở thị trấn Đồ Môn, tỉnh Cát Lâm, hơn một thập kỷ nay. "Tôi không lạc quan về việc ông ấy bị bắt giữ. Các cáo buộc rõ ràng không có giá trị", Zhang nói. Hiện Trung Quốc chưa ấn định ngày xét xử ông Hahn.
Sinh ra ở Triều Tiên nhưng ông Hahn được nhập quốc tịch Mỹ. Ông từng là nhân viên hoạt động xã hội ở Los Angeles, California, Mỹ. Sau khi nghỉ hưu, ông chuyển đến Đồ Môn với hy vọng giúp đỡ người Triều Tiên. Hahn có hai hiệu bánh tại Triều Tiên, chuyên làm bánh cho học sinh. Trường Hướng nghiệp Sông Đồ Môn của ông đào tạo hướng nghiệp cho những thiếu niên cơ nhỡ, theo Los Angeles Times
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki xác nhận việc Hahn bị bắt giữ. Một quan chức lãnh sự Mỹ đến thăm Hahn trong nhà giam hôm qua. Tổng lãnh sự quán của Mỹ tại tỉnh Sơn Đông cũng hỗ trợ các công việc cần thiết. Hiện Bộ Ngoại giao Trung Quốc chưa có phản hồi về vụ việc.
AP bình luận việc bắt giữ ông Hahn là một dấu hiệu cho thấy Trung Quốc quan tâm tới hoạt động của người nước ngoài ở khu vực biên giới. Đầu năm nay, nhà chức trách Trung Quốc cũng giam giữ hai người Canada là Kevin và Julia Garratt, sống ở Đan Đông, Liêu Ninh, một thị trấn khác gần biên giới Triều Tiên, vì cáo buộc đánh cắp thông tin quân sự và tình báo. Hiện tình trạng của họ chưa rõ.
Khánh Lynh

Trung Quốc nổi giận vì Mỹ bán chiến hạm cho Đài Loan

Trung Quốc nổi giận vì Mỹ bán chiến hạm cho Đài Loan

Trung Quốc cho biết nước này đã trao công hàm phản đối cho Mỹ, sau khi Tổng thống Barack Obama thông qua việc bán 4 tàu khu trục nhỏ tên lửa dẫn đường cho Đài Loan.
 
USS Vandegrift, tàu khu trục lớp Perry của Hải quân Mỹ. Ảnh: USNavy
USS Vandegrift, tàu khu trục lớp Perry của Hải quân Mỹ. Ảnh: USNavy
"Trung Quốc kiên quyết phản đối việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan. Lập trường này là kiên quyết, rõ ràng và nhất quán", Reuters dẫn lời ông Tần Cương, phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Trung Quốc, hôm qua nói.
Ông Tần cho biết vấn đề Đài Loan là một trong những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc và đến nay vẫn là chủ đề nhạy cảm nhất, quan trọng nhất trong quan hệ Mỹ - Trung. "Trung Quốc bày tỏ sự bất bình mạnh mẽ và kiên quyết phản đối điều này, và đã trao công hàm phản đối Mỹ cả ở Bắc Kinh và Washington. Chúng tôi có quyền có những động thái thêm nữa".
Tổng thống Obama hôm 19/12 ký thành luật Đạo luật Chuyển giao tàu Hải quân 2013, mở đường cho việc bán 4 tàu khu trục nhỏ hải quân nước này đã thôi sử dụng.
Cơ quan phòng vệ Đài Loan cảm ơn Mỹ vì thông qua thương vụ, cho rằng nước này đang cam kết thực hiện Đạo luật về Quan hệ với Đài Loan để hỗ trợ an ninh hòn đảo. Cơ quan này ban đầu định mua hai chiếc tàu lớp Perry.
Theo đạo luật trên, Mỹ có nghĩa vụ trợ giúp Đài Loan phòng vệ trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công. Đạo luật có hiệu lực từ năm 1979 khi Washington cắt quan hệ ngoại giao chính thức với hòn đảo này để công nhận một nhà nước Trung Quốc.
Trọng Giáp

Trung Quốc sắp hạ thủy tàu tuần duyên lớn nhất thế giới

Trung Quốc sắp hạ thủy tàu tuần duyên lớn nhất thế giới

Trung Quốc dự kiến hạ thuỷ và biên chế tàu tuần duyên lớn nhất thế giới với lượng giãn nước lên tới 12.000 tấn trong năm tới.
 
tq-3696-1419015076.jpg
Bức ảnh về chiếc tàu tuần duyên Trung Quốc đang đóng bị rò rỉ trên mạng cuối tuần trước. Ảnh: SCMP
Một bức ảnh bị rò rỉ lên mạng cuối tuần qua cho thấy một con tàu đỗ tại xưởng đóng ở trạng thái gần hoàn tất. Tàu được sơn màu trắng, với những sọc đỏ và xanh, dấu hiệu tuần duyên Trung Quốc. Thân tàu có sơn dòng chữ "Tuần duyên Trung Quốc 2901". Con tàu mới sẽ có lượng giãn nước 12.000 tấn, các báo cáo cho biết.
Trang tin Guancha.cn có trụ sở tại Bắc Kinh cho rằng nước này sẽ sớm hạ thuỷ con tàu tuần duyên lớn nhất, thứ có thể đem đến ưu thế đáng kể cho Bắc Kinh trong tranh chấp với Nhật quanh chuỗi đảo không người ở trên biển Hoa Đông. Theo các báo cáo, tàu sẽ được triển khai sớm nhất là vào mùa xuân năm tới.
Sau khi hoàn thành, tàu sẽ vượt hai con tàu tuần tra lớp Shikishima của Tuần duyên Nhật để trở thành tàu tuần duyên lớn nhất thế giới, truyền thông Trung Quốc cho hay. Hiện tàu phá băng Healy của Mỹ vẫn là tàu tuần duyên lớn nhất thế giới, với lượng giãn nước 16.000 tấn, nhưng nó chủ yếu tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học ở các vùng cực.
Một tàu tuần duyên lớp Shikishima của Nhật. Ảnh:
Một tàu tuần duyên lớp Shikishima của Nhật. Ảnh: Wikipedia
Tàu lớp Shikishima, lớn nhất Nhật Bản, có lượng giãn nước khoảng 9.300 tấn, trong khi tàu tuần tra lớn nhất của Trung Quốc hiện là tàu Haijian 50, với lượng giãn nước dưới 4.000 tấn.
Những bài báo trước đó của Trung Quốc cho biết con tàu sẽ được trang bị một khẩu pháo chính khai hoả nhanh 76 mm, hai khẩu phụ và hai khẩu pháo phòng không, có thể chở hai trực thăng.
Con tàu tuần tra mới sẽ do lực lượng Tuần duyên Trung Quốc điều hành, nhiều khả năng triển khai ở biển Hoa Đông, nơi nước này có tranh chấp lãnh thổ với Nhật quanh chuỗi đảo Senkaku/Điếu Ngư. Lực lượng Tuần duyên Trung Quốc được thiết lập năm ngoái nhằm thực hiện nghiên cứu hàng hải, cứu hộ và tuần tra.
Các báo cáo trước đó nhận dạng công ty đóng tàu là Tập đoàn Công nghiệp Đóng tàu Trung Quốc (CSIC), một trong hai "gã khổng lồ" về ngành đóng tàu ở nước này. Nhưng những bức ảnh mới rò rỉ trên mạng lại cho thấy con tàu đỗ tại Xưởng đóng tàu Jiangnan, một chi nhánh của Tập đoàn Đóng tàu Nhà nước (CSSC).
Theo South China Morning Post, cả Xưởng đóng tàu Jiangnan và CSSC đều không thể tiếp cận được để xin bình luận. Những bức ảnh trên mạng cũng cho thấy một tàu vận tải đổ bộ type - 071 đang được đóng tại xưởng, có khả năng chở trực thăng.
Trọng Giáp

Trung Quốc lập mạng lưới giám sát biển

Trung Quốc lập mạng lưới giám sát biển

Trung Quốc sẽ thiết lập mạng lưới quan sát ngoài khơi, bao gồm vệ tinh và các trạm radar, để cải thiện sức mạnh trên biển, động thái được cho là sẽ làm trầm trọng thêm căng thẳng trong khu vực.

English: The China Marine Surveillance cutter "Haijian 66" and the Japan Coast Guard cutter "Kiso" confronted each other near the disputed islands in East China Sea known as the Senkaku Islands in Japan and Diaoyu Islands in China.
Tàu hải giám Haijian 66 của Trung Quốc đối đầu với tàu Kiso của lực lượng tuần duyên Nhật Bản gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư năm 2012. Ảnh: Wikipedia.
Mạng lưới dự kiến hoàn thiện vào năm 2020. Một quan chức thuộc Cơ quan Hải dương Quốc gia Trung Quốc gọi mạng lưới trên là "cơ sở" để bảo vệ lợi ích trên biển của Trung Quốc, tờ China Daily hôm nay cho biết. Mạng lưới này sẽ bao trùm lên các vùng biển ở ven bờ, ngoài khơi và địa cực. Các trạm quan sát hoạt động dưới biển và hệ thống cảnh báo sóng thần cũng được xây dựng.
Tờ báo cho biết mạng lưới sẽ giúp Trung Quốc thấy rõ tiềm năng tài nguyên tại những vùng biển của nước này nhưng không tiết lộ chi phí xây dựng.
Động thái này được cho là sẽ làm trầm trọng thêm căng thẳng trong khu vực. Nhiều quốc gia láng giềng, gồm Nhật Bản, Philippines và Việt Nam, đã bày tỏ lo ngại về việc Trung Quốc tăng cường quân đội và gia tăng các hành động hiếu chiến trên biển.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với gần như toàn bộ Biển Đông, khu vực được cho là giàu tài nguyên và có trữ lượng dầu khí lớn, bất chấp sự phản đối từ các nước láng giềng.
Trên biển Hoa Đông, Trung Quốc có tranh chấp với Nhật Bản về chủ quyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Các tàu tuần tra và chiến đấu cơ hai nước luôn theo dõi lẫn nhau ở gần quần đảo không người này, làm dấy lên lo ngại xảy ra va chạm, có thể leo thang thành đụng độ quy mô lớn.
Tổng thống Mỹ Barack Obama tháng trước tìm cách trấn an các đồng minh ở châu Á - Thái Bình Dương về sự thay đổi chiến lược đối với khu vực. Ông cam kết tiếp tục những nỗ lực tăng cường quan hệ an ninh với các quốc gia, trong đó có Nhật Bản và Việt Nam.
Washington tháng trước còn kêu gọi Bắc Kinh ngừng dự án cải tạo, bồi đắp đất ở quần đảo Trường Sa sau khi các báo cáo phân tích hình ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang xây đảo nhân tạo trên một bãi cạn với diện tích đủ lớn cho một đường băng. Trung Quốc lại ngang ngược cho rằng nước này có "chủ quyền không tranh cãi" với quần đảo Trường Sa và nói Mỹ đưa ra "những lời nhận xét vô trách nhiệm".
Như Tâm

Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

Thách thức đại chiến lược Trung Quốc

Thách thức đại chiến lược Trung Quốc: Xây đảo trên Biển Đông


biendong

Tác giả: Alexander Vuving, “China’s Grand-Strategy Challenge: Creating Its Own Islands in the South China Sea”, The National Interest, 8/12/2014.
Biên dịch & Hiệu đính: Nguyễn Quang Khải
Những hình ảnh chụp từ vệ tinh được tờ tạp chí tình báo quốc phòng IHS Jane’s phân tích cho thấy Trung Quốc đang xây dựng trên Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa một doi đất mang hình dáng sân bay dài 3.000m và một hải cảng đủ lớn cho các tàu chở dầu và tàu chiến lớn neo đậu. Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc làm vậy, đảo này là hòn đảo mới nhất được Trung Quốc xây dựng trong chuỗi hành động xây đảo lấn biển mà nước này đang tiến hành ở cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trên biển Đông.
Trung Quốc xây đảo để làm gì? Mục đích tối thượng của những dự án này là gì? Lăng kính thông thường chúng ta sử dụng để giải mã các động thái chiến lược trên trường quốc tế không phù hợp để trả lời những câu hỏi ấy. Lăng kính thông thường nhìn trò chơi giữa các quốc gia dưới góc độ cờ vua, nhưng ở biển Đông, Trung Quốc lại đang chơi cờ vây.
Cờ vây (weiqi) là loại cờ cổ xưa nhất Trung Hoa (được biết đến ở phương Tây qua tên gọi của người Nhật là go), mang nhiều điểm tương đồng với một dòng tư duy chiến lược truyền thống có nhiều ảnh hưởng của Trung Hoa. Trong khi cờ vua là trò chơi chiếu tướng thì cờ vây, như tên gọi của nó, lại là trò bao vây. Trong cờ vây, không có vua, hậu hay tốt mà chỉ có những quân cờ giống nhau, quyền lực của chúng phụ thuộc vào vị trí của chúng trong tương quan rộng lớn hơn trên bàn cờ. Nếu như cờ vua là cuộc chiến giữa hai đội quân thì cờ vây là cuộc chiến của những tính toán định hình bàn cờ. Người chơi cờ vua giỏi nhắm đến việc đập tan sức mạnh cứng của đối phương, người chơi cờ vây giỏi nhắm đến việc kiểm soát các vị trí chiến lược, từ đó lan tỏa sức mạnh dựa trên vị trí.
Nếu coi biển Đông là một bàn cờ vua thì những động thái của Trung Quốc ở đó hầu như chỉ là vặt vãnh. Hầu như chỉ có tốt tiến quân, trong khi những quân cờ quyền lực hơn không có mấy động thái. Có lẽ vị trí đáng gờm nhất trên bàn cờ là căn cứ tàu ngầm hạt nhân ở Du Lâm phía nam đảo Hải Nam. Tuy nhiên, căn cứ này không nằm trong vùng biển tranh chấp. Quân đội hiếm khi là lực lượng chính tham gia vào tranh chấp biển Đông, mà chủ yếu là tàu đánh bắt cá và tàu hải giám. Và tâm điểm tranh chấp lại là những đá nhỏ, không thể cư ngụ và thường chìm.
Thoạt nhìn trò chơi này dưới góc độ cờ vua, một nhà ngoại giao kỳ cựu của Mỹ từng nói “các cường quốc không gây chiến với nhau chỉ vì những hòn đá” và một học giả hàng đầu về hàng hải Trung Quốc kết luận “những căng thẳng giữa một cường quốc mới nổi và các nước láng giềng là tự nhiên và không cấu thành mối đe dọa đáng kể nào đối với cân bằng quyền lực toàn cầu cũng như hoạt động bình thường của hệ thống quốc tế.”
Nhưng dưới con mắt của người chơi cờ vây, những gì mà Trung Quốc làm ở biển Đông là ví dụ kinh điển cho thấy nước này đã chơi môn cờ vây tài tình thế nào. Mục đích tối thượng là nhằm kiểm soát khu vực. Chiến lược để đạt được mục đích này dựa vào việc lấn dần, chứ không phải những trận giao tranh lớn. Lấn dần (creeping expansion – hay tằm ăn dâu – NBT) là một chiến lược đã được thực hiện trong suốt nhiều thập kỷ. Song song với chiến lược này là chiến lược cắt lát salami và ngoại giao gậy nhỏ (small-stick diplomacy – tức đe dọa ở mức độ vừa phải – NBT). Logic ẩn dưới đó là dần dần biến chuyển tình hình theo hướng có lợi cho sự bành trướng của Trung Quốc bằng cách khéo léo dùng thủ đoạn thay đổi thế chiến lược trong khu vực.
Chiến lược này đòi hỏi một số bước đi cần thiết, thực hiện tuần tự. Đầu tiên là hết sức tránh các cuộc xung đột vũ trang công khai; có thể khởi phát xung đột nhỏ, nhưng việc ấy chỉ được thực hiện nhằm lợi dụng tình hình vốn đã có lợi cho Trung Quốc. Bước thứ hai là kiểm soát những điểm chiến lược nhất trên biển; nếu không kiểm soát từ trước thì có thể lén lút chiếm, thậm chí có thể có xung đột nhỏ nếu cần. Bước thứ ba là phát triển những điểm đó thành điểm kiểm soát mạnh, tích cực xây dựng các trung tâm hậu cần và căn cứ hiệu quả để phô trương sức mạnh. Lịch sử can dự của Trung Quốc ở xung đột biển Đông cho thấy nước này đã theo sát những đường đi nước bước kể trên.
Mặc dù Trung Quốc sẵn sàng lao vào đối đầu quân sự, nhưng nước này vẫn thường tránh viện đến các cuộc chiến vũ trang lớn để mở rộng không gian kiểm soát. Trong suốt sáu mươi năm qua, chỉ có hai lần Bắc Kinh xung đột quân sự để chiếm đảo. Lần thứ nhất vào tháng Giêng năm 1974 với Việt Nam Cộng hòa, kết thúc với việc Trung Quốc chiếm nửa phía Tây của quần đảo Hoàng Sa, nhóm đảo Lưỡi Liềm. Lần thứ hai là một xung đột nhỏ hơn nhiều, nhưng cũng không kém phần đẫm máu với nước Việt Nam thống nhất tại Đá Gạc Ma hồi tháng Ba năm 1988.
Điểm đáng chú ý ở hai lần đối đầu này là chúng đều xảy ra khi trong khu vực này xuất hiện một khoảng trống quyền lực lớn. Lần thứ nhất, Mỹ đang rút quân khỏi khu vực này, và lần thứ hai là khi Liên Xô rút dần sự hiện diện. Trong cả hai lần, Trung Quốc đều được hưởng lợi từ cái gật đầu ngầm của Mỹ, nhân tố quyền lực nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương mở rộng. Vì thế, những cuộc xung đột quân sự ấy không gây ra nhiều hệ lụy về mặt ngoại giao (cho Trung Quốc).
Bước đi thứ hai được phản ánh rất rõ trong cách Bắc Kinh chọn các địa điểm chiếm đóng trong khu vực đang tranh chấp. Khi Trung Quốc và Việt Nam tranh giành vị thế ở quần đảo Trường Sa năm 1988, Trung Quốc đã chọn chất lượng bù số lượng. Trung Quốc chiếm 6 đảo trong khi Việt Nam chiếm 11 đảo. Nhưng năm trong số sáu đảo đó là những vị trí chiến lược nhất trong quần đảo.
Lựa chọn đầu tiên của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa là Đá Chữ Thập, một trong những đảo tốt nhất trong quần đảo xét về vị trí và khả năng mở rộng. Rạn san hô này án ngữ vị trí lý tưởng cửa ngõ phía Tây của quần đảo Trường Sa và là một trong số ít các địa vật trong quần đảo này gần các tuyến hải hành xuyên đại dương đi qua biển Đông. Đá Chữ Thập không quá gần cũng không quá xa các nhóm đảo khác, lợi thế giúp giảm khả năng bị tấn công đồng thời mở rộng không gian ảnh hưởng.
Ngoài ra, Đá Chữ Thập còn chiếm một khu vực rộng 110 km vuông, một trong những địa vật lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Bốn trong số năm địa vật còn lại là đá Subi, đá Gaven, đá Gạc Ma và đá Châu Viên nằm ở rìa bốn nhóm đảo khác nhau, từ đó có thể kiểm soát một vùng biển rộng lớn và những tuyến hải hành chủ chốt ở quần đảo Trường Sa. Sau này Trung Quốc còn chiếm thêm hai địa vật nữa cũng có giá trị chiến lược vô cùng to lớn.
Đá Vành Khăn mà Trung Quốc lén lút chiếm của Philippines hồi cuối năm 1994, đầu năm 1995 nằm ngay trung tâm cánh phía đông của quần đảo Trường Sa và rất gần các tuyến hải hành trọng điểm dọc phía đông biển Đông. Bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc chiếm năm 2012 với chiến lược ngoại giao gậy nhỏ và “ngoại giao lật lọng” (double-dealing diplomacy)[1] bao quát góc đông bắc biển Đông và là chốt canh lý tưởng nhằm kiểm soát các tuyến hải hành chính qua khu vực này.
Với việc kiểm soát quần đảo Hoàng Sa, bãi cạn Scarbourough và các đảo nhân tạo chiến lược khác trong quần đảo Trường Sa, Trung Quốc có lợi thế hơn bất cứ nước nào khác trong việc kiểm soát cái mà Robert Kaplan gọi là “yết hầu của các tuyến đường biển toàn cầu”. Chẳng hạn, đảo Phú Lâm (đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa), Đá Chữ Thập, Đá Vành Khăn và bãi cạn Scarborough tạo thành một chòm sao bốn điểm với bán kính chỉ 250 hải lý từ đó có thể kiểm soát chặt chẽ toàn bộ biển Đông.
Điều đó có nghĩa là để trở thành lãnh chúa trên biển Đông, Trung Quốc chỉ cần phát triển những tài sản ấy thành nền tảng vững chắc có thể cung cấp hậu cần cho một mạng lưới tàu đánh cá, tàu hải giám, tàu ngầm và máy bay nhằm thống trị bầu trời và vùng nước khu vực này, cũng như một số vùng đất để thiết lập những khu kinh tế và an ninh rộng.
Đó chính xác là những gì Bắc Kinh đang tiến hành. Sáu mươi năm trước đảo Phú Lâm chỉ là một bãi cát không người ở, nay đã có gần 1.000 người, cả dân lẫn binh lính. Cơ sở vật chất lưỡng dụng bao gồm một sân bay với một đường băng 2.700m và một đường dẫn máy bay song song, có sức chứa hơn tám máy bay thế hệ thứ tư như tiêm kích SU-30MKK và máy bay đánh bom JH-7, một cảng nước sâu 1.000m có thể cho phép tàu tải trọng 5.000 tấn neo đậu.
Từ năm 2013, Trung Quốc cũng tiến hành các dự án xây dựng khổng lồ ở phía nam quần đảo Trường Sa hòng biến những đá mà nước này chiếm được thành đảo. Theo một quan chức tình báo cấp cao của Đài Loan tên là Lý Tường Trụ (Lee Hsiang-chou), chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thông qua kế hoạch mở rộng đảo lấn biển để xây dựng các cơ sở quân sự trên năm đảo nhỏ trong vùng biển này, trong đó có Đá Châu Viên, Đá Gạc Ma, Đá Gaven, Đá Tư Nghĩa và Đá Chữ Thập.
Trong số những dự án xây đảo ấy, gây nhiều tác động nhất phải kể đến dự án Đá Chữ Thập. Từ một rạn san hô chìm, Đá Chữ Thập sẽ sớm trở thành đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Sau khi lấn biển, với diện tích đất dự kiến đạt 2km vuông, Đá Chữ Thập sẽ lớn gấp bốn lần đảo tự nhiên lớn nhất trong quần đảo là Ba Bình hiện đang bị Đài Loan chiếm đóng. Khu vực mở rộng này cho phép Đá Chữ Thập chứa được một sân bay với đường băng 3.000m, một cảng nước sâu, các trạm radar, vài tên lửa tầm trung và tầm xa, kho bãi và cơ sở vật chất cung cấp dịch vụ khác đủ khả năng hỗ trợ hàng trăm tàu cá, tàu hải giám, tàu chiến và máy bay.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu trong tương lai gần đến trung hạn Bắc Kinh tiếp tục xây đường băng sân bay và cảng nước sâu ở Subi, Đá Vành Khăn và bãi cạn Scarborough và thiết lập một vùng nhận dạng phòng không ở biển Đông.
Với các đảo được mở rộng và xây mới ở các vị trí chiến lược, Trung Quốc có nhiều khả năng hơn tất cả các cường quốc khác trong việc giành thế thống trị trên không và trên biển ở biển Đông. Mặc dù Bắc Kinh vẫn còn cả một con đường dài phía trước, nhưng trong vòng hai mươi năm nữa viễn cảnh một biển Đông la liệt các căn cứ của Trung Quốc trải dài từ quần đảo Hoàng Sa ở tây bắc tới Đá Vành Khăn ở đông nam, từ bãi cạn Scarborough ở đông bắc đến Đá Chữ Thập ở tây nam sẽ chẳng có gì là quá khó tưởng tượng.
Liệu quá trình lấn dần này có phải là không thể ngăn chặn? Mặc dù Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) mà Trung Quốc và các nước ASEAN ký năm 2002 không tạo nhiều cơ sở để phong tỏa các điểm xây dựng lại, nhưng các nước muốn duy trì nguyên trạng vẫn có thể gửi các quan sát viên quốc tế tới để giám sát xây dựng và gây sức ép ngoại giao nhằm thuyết phục Trung Quốc dừng hành động.
Một cách nữa để thách thức chiến lược cờ vây của Trung Quốc là dùng chính chiến thuật mà nước này sử dụng. Ví dụ, bước đầu tiên, Việt Nam có thể cho phép Ấn Độ sử dụng căn cứ hải quân ở vịnh Cam Ranh và cho Mỹ sử dụng căn cứ không quân ở Đà Nẵng. Đây là hai địa điểm chiến lược nhất của Việt Nam dọc bờ biển Đông. Nếu Trung Quốc không để ý tới thông điệp này, Việt Nam có thể tăng cường động thái ngăn chặn bằng cách cho phép quân đội Mỹ và Nhật Bản vào Cam Ranh và Đà Nẵng, từ đó hai nước có thể tuần tra biển Đông. Trên hết, nếu Trung Quốc vẫn quyết tâm biến biển Đông thành ao nhà của mình thì các nước Việt Nam, Philippines, Mỹ, Nhật và Ấn Độ cần hình thành một liên minh mạnh mẽ hòng đảo ngược lại trạng thái mất cân bằng quyền lực ấy.
Đại chiến lược của Trung Quốc ở biển Đông là một kế hoạch khôn khéo tận dụng những điểm yếu của các chiến lược dựa trên các trận đánh lớn mà điển hình là Chiến lược tác chiến không-hải mà Mỹ đưa ra nhằm vô hiệu hóa năng lực Chống tiếp cận – phong tỏa khu vực (A2AD) của Trung Quốc và Chiến lược kiểm soát tầm xa (Offshore Control), lựa chọn thay thế chủ chốt của chiến lược A2AD. Nhưng chiến lược lấn dần này không phải là hoàn hảo. Nó có thể bị ngăn chặn nếu Mỹ, Việt Nam và các cường quốc khu vực khác chơi cờ vây điêu luyện như Trung Quốc.
Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm) là phó giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương ở Honolulu. Quan điểm trong bài viết này là của cá nhân tác giả, không phản ánh quan điểm nơi tác giả công tác.
——————-
[1] Trong cuộc đối đầu tại bãi cạn Scarborough, sau khi Mỹ đứng ra làm trung gian hòa giải, Philippines nghĩ rằng Trung Quốc đã đồng ý cả hai bên rút tàu về nhưng sau khi Philippines rút về thi Trung Quốc vẫn không hề rút và rốt cuộc đã chiếm Scarborough trên thực tế (ghi chú của người biên tập dựa trên trao đổi với tác giả bài viết).
Theo Nghiên Cứu Quốc Tế