TTCT - Cuối tháng 7-2014, trên cổng thông tin
soyuz.by (của Liên bang Nga và Belarus), nhà phân tích cao cấp Gleb
Shutov đã đăng bài “Giàn khoan bất hòa” (1) phân tích các động thái của
Trung Quốc trên biển Đông, phản ứng của các bên liên quan và lộ trình
hành động đề xuất cho phía Nga.
Được sự đồng ý của tác giả, TTCT lược dịch để độc giả có thêm một góc nhìn chuyên gia từ phía Nga - Belarus về vấn đề biển Đông.

Nghị quyết 412 được Thượng viện Mỹ thông qua ngày 13-7-2014 khẳng định ủng hộ tự do hàng hải trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và giải quyết hòa bình các vấn đề trên biển Đông - Ảnh: beta.congress.gov
Cuối cùng thì giàn khoan Haiyang Shiyou 981 cũng
đã rút đi sau hai tháng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Nó
đã rời khỏi vùng đảo Hoàng Sa... trên nền những tuyên bố gay gắt của Mỹ
và sau khi Thượng viện Mỹ thông qua nghị quyết 412, nhấn mạnh rằng “là
một cường quốc khu vực, Hoa Kỳ quan tâm đến tự do hàng hải trong khu
vực”.
Nghị quyết cũng yêu cầu Bắc Kinh phải phục hồi
nguyên trạng vùng biển Đông. Mặc dù Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định
việc dời giàn khoan về phía đảo Hải Nam “không liên quan đến các tác
nhân bên ngoài”, nhưng muốn hiểu rõ nguyên nhân rút giàn khoan, sẽ đơn
giản hơn nếu xem xét các nguyên nhân khiến Trung Quốc đặt giàn khoan
trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.
Có thể liệt kê năm nguyên nhân chính:
1) Kinh tế
Theo Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA), vùng
quần đảo Hoàng Sa không có các mỏ dầu khí lớn, và theo các dữ liệu địa
chất thì vùng này không có tiềm năng lớn cho việc khai thác dầu và khí
đốt.
Tuy nhiên, theo Tân Hoa xã, tổng kết công việc
khoan thăm dò mới rồi, đại diện Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc (CNPC) tuyên
bố gần vùng quần đảo Hoàng Sa “phát hiện có dấu hiệu của mỏ dầu và khí
đốt” (2).
2) Địa chiến lược
Biển Đông nối Đông Bắc Á và phía tây Thái Bình
Dương với Ấn Độ Dương, Cận Đông và châu Âu. Năm trong số mười tuyến
đường hàng hải lớn của thế giới có nối kết với biển Đông. Các nền kinh
tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Trung Quốc phần lớn lệ
thuộc vào các hải trình đi ngang biển Đông. Trong 16 tuyến đường biển
chiến lược gắn với biển Đông thì có tới bốn eo biển ở biển Đông là
Malacca, Lombok, Sunda và Ombai Wetar.
Eo biển Malacca là băng thông thứ hai sau eo
biển Hormuz. Số tàu chở dầu qua kênh này nhiều hơn ba lần số tàu chở dầu
qua kênh Suez và nhiều hơn năm lần qua kênh Panama. 80% lượng dầu cung
cấp cho Trung Quốc đi qua eo biển Malacca.
Vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cho phép kiểm soát các tuyến đường biển trong khu vực, thiết
lập các đài rađa, trạm thông tin liên lạc và điểm tiếp nhiên liệu. Trung
Quốc lại nhận phần lớn nhiên liệu qua đường biển. Mong muốn của Bắc
Kinh kiểm soát vùng biển này được giải thích bởi nỗi lo Mỹ có thể phong
tỏa biển đối với Trung Quốc.
Tuy nhiên, toan tính của Trung Quốc không chỉ có tính phòng thủ mà còn tấn công.
Nhà nghiên cứu chiến lược Trung Quốc Li Guang
Quan (Lý Quang Toàn) mô tả kế hoạch của Trung Quốc ở Thái Bình Dương đã
viết: “...mục tiêu của chiến lược Trung Quốc là phòng thủ xa bờ... Đến
năm 2020, Trung Quốc sẽ có một hạm đội có thể thực hiện thành công các
nhiệm vụ trải dài đến tận “tuyến quần đảo thứ hai” với ranh giới kéo dài
ít nhất 900 dặm về phía đông Đài Loan.
Và đến năm 2050 Trung Quốc sẽ thành lập một hạm
đội đại dương với tầm hoạt động vươn tới tận đảo Guam, nơi được gọi là
“tuyến quần đảo thứ ba” (3)”.
Như vậy hoạt động tích cực gần đây của Trung
Quốc ở biển Đông là một phần của chiến lược biển tổng thể của Trung
Quốc, theo đó đến năm 2050 hải quân Trung Quốc sẽ vươn tới tận hải giới
của Mỹ.
3) Kiểm tra sự sẵn sàng của Mỹ hỗ trợ các đồng minh trong khu vực
...Giàn khoan Haiyang Shiyou 981 đã được đưa tới
vùng biển đặc quyền kinh tế Việt Nam sau khi Tổng thống Mỹ Obama vừa
kết thúc chuyến thăm châu Á, khiến có thể giả định Trung Quốc muốn chứng
tỏ sẵn sàng mở rộng ảnh hưởng trong khu vực. Nó cũng là một thông điệp
Trung Quốc gửi tới các đồng minh tiềm năng của Washington trong việc
kiềm chế Trung Quốc...
4) Trung Quốc và Nga không phải là anh em vĩnh viễn
Xung đột trên biển Đông cũng diễn ra ngay trước
chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Nga V. Putin. Có thể giả định đây
cũng là một thông điệp gửi tới Matxcơva. Trung Quốc muốn chứng minh họ
có thể đảm bảo an toàn cho các tuyến hàng hải nhập khí đốt vào Trung
Quốc, một điều hết sức quan trọng trên nền việc ký kết hợp đồng khí đốt
30 năm giữa Trung Quốc và Nga.
Rõ ràng các nhà xuất khẩu dầu khí Nga đã đặt giá
bán dầu khí cao cho Trung Quốc vì có tính đến nguy cơ các tuyến đường
vận tải biển này bị phong tỏa. Khi Trung Quốc đã chỉ cho Nga thấy nguy
cơ tổn thương này không cao, đó có thể là một trong những nguyên nhân
khiến hợp đồng dầu khí trên được ký kết trong những điều kiện có lợi cho
Trung Quốc. Cần lưu ý là Bắc Kinh có thái độ rất tiêu cực đối với quan
hệ đối tác chiến lược của Nga với Việt Nam.
Gần đây, Nga đã bắt đầu chính sách “trở lại châu
Á” gây phản ứng tiêu cực từ Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ. Năm 2012, tờ Hoàn
Cầu Thời Báo đã đăng bài chỉ trích các kế hoạch của Nga củng cố vị thế ở
châu Á - Thái Bình Dương: “Chống trả một cách tuyệt vọng sự trở lại
Đông Nam Á của Nga là không thể, nhưng cũng không được để cho tiến trình
này tự nhiên diễn ra...
Nếu Nga vượt qua biên giới các lợi ích của Trung
Quốc ở Đông Nam Á, chẳng hạn như khai thác dầu khí trong vùng biển đang
tranh chấp giữa Trung Quốc với riêng rẽ từng nước Đông Nam Á thì Trung
Quốc sẽ mạnh mẽ tuyên bố quan điểm của mình để tránh những đánh giá
không chính xác của Matxcơva về quan hệ Nga - Trung trong bối cảnh các
vấn đề của biển Nam Trung Hoa (biển Đông)”.
Tháng 4-2013, Trung Quốc đã chỉ trích việc Nga cung cấp vũ khí cho Việt Nam và thương lượng về việc sử dụng vịnh Cam Ranh.
Và vào tháng 5 năm nay, với việc đặt giàn khoan
trên vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam ngay trước chuyến thăm Trung Quốc
của tổng thống Nga, có thể Bắc Kinh muốn đặt ông Putin trước sự chọn lựa
phức tạp giữa việc đẩy mạnh hợp tác với Trung Quốc và phát triển quan
hệ đối tác Việt Nam - Nga.
Cho đến nay, khác với Mỹ, Bộ Ngoại giao Nga khá kiềm chế khi nhận định tình hình ở biển Đông...
5) Cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc
Có những giả thiết rằng xung đột lãnh thổ với
các láng giềng chính là hậu quả cuộc đấu tranh giữa các phe phái lãnh
đạo Trung Quốc. Chẳng hạn như lập luận rằng năm 2012, cuộc tranh cãi
giữa Trung Quốc với Philippines năm 2012 về dải đá ngầm Scarborough bùng
lên là do đấu đá giữa các phe phái Trung Quốc.
Vì sao có giả thiết cuộc chiến trong nội bộ Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã dẫn đến sự căng thẳng trong quan hệ với Việt
Nam? Có thể dựa vào những yếu tố sau:
- Cuộc chiến giữa các bè phái và gia tộc là yếu
tố cấu thành của văn hóa chính trị Trung Quốc, đặc trưng cho Trung Quốc
thời phong kiến lẫn hiện đại.
- Như M. B. Zhasayev (4) nhận xét, “đời sống
chính trị của tầng lớp tinh hoa Trung Quốc từ thời Mao Trạch Đông đến
nay... luôn phải tìm kiếm một điểm quân bình nào đó giữa các phe nhóm...
Ý nghĩa đặc biệt trong cuộc chiến này là mũi tên chống tham nhũng, nó
đã trở thành phương tiện yêu thích để loại bỏ các đối thủ chính trị”.
- Có thể thấy sau đại hội đảng lần thứ 18 của
Trung Quốc, trong bản giao hưởng của chính sách đối nội và đối ngoại
ngày càng thường xuyên vang lên các nốt Pháp gia (*). Điều này cũng thể
hiện cả trong quan hệ với các nước láng giềng cũng như trong xu hướng
ngày càng nhiều quyền lực tập trung vào tay Tổng bí thư Tập Cận Bình.
Tập Cận Bình tuyên bố nguyên tắc không khoan
nhượng với tham nhũng, tấn công vào cả “ruồi lẫn hổ”. Chiến dịch chống
tham nhũng của Tập Cận Bình được gọi là lớn nhất từ thời Mao Trạch Đông.
- Dự kiến vào đêm trước của đại hội đảng 19,
việc phân bổ cuối cùng các lực lượng trong ban lãnh đạo đảng sẽ được đẩy
mạnh, đại diện các phe nhóm cạnh tranh sẽ sử dụng các loại công cụ khác
nhau, bao gồm cả xung đột với các láng giềng, để củng cố vị thế.

Giàn khoan Haiyang Shiyou 981 đã được đưa tới vùng biển đặc quyền kinh tế Việt Nam sau khi Tổng thống Mỹ Obama vừa kết thúc chuyến thăm châu Á và trước khi Tổng thống Nga thăm Trung Quốc. Trong ảnh: Tổng thống Obama tại Hàn Quốc trong chuyến công du châu Á tháng 4-2014
Ít khả năng xung đột vũ trang
Tuy vậy, ít có khả năng xảy ra một cuộc xung đột
vũ trang giữa Trung Quốc - Việt Nam trên biển Đông, ít ra trong giai
đoạn từ nay đến năm 2025. Vì sao?
Có thể thấy nếu nổ ra chiến tranh thì không chỉ
Việt Nam, mà cả Trung Quốc lẫn Mỹ đều không có lợi... Từ phía Trung
Quốc, nhiều khả năng xung đột sẽ dẫn đến việc phong tỏa một phần hay
toàn phần eo biển Malacca, gây trở ngại cho việc vận chuyển dầu: 80% dầu
nhập vào Trung Quốc đi qua eo biển này. Chính vì vậy mà Mỹ đang thảo
luận học thuyết “bóp nghẹt” Trung Quốc bằng cách phong tỏa đường biển.
Việc xây dựng những tuyến đường vận chuyển mới
đòi hỏi một thời gian nhất định mặc dù việc này đang được Trung Quốc ráo
riết tiến hành. Chưa kể thực lực hải quân Trung Quốc hiện vẫn còn thua
sút Mỹ. Nếu Mỹ có tới 11 tàu sân bay thì Trung Quốc chỉ có được năm hàng
không mẫu hạm vào năm 2025.
Về phía Mỹ, một cuộc chiến tranh trên biển Đông
cũng không có lợi trong tình hình hiện nay. Có thể thấy qua việc thay
đổi học thuyết phòng vệ Mỹ: Việc thành lập hệ thống an ninh tập thể ở
châu Á - Thái Bình Dương sẽ giúp Mỹ chuyển bớt gánh nặng quân sự lên các
vệ tinh, nhưng hệ thống này hiện vẫn chưa hoàn thiện, nên sẽ thiếu khôn
ngoan nếu Mỹ bước vào một cuộc chiến với Trung Quốc trong tình hình
này.
Xung đột biển Đông và tiến trình hội nhập kinh tế khu vực
Liệu xung đột trên biển Đông có tác động thế nào
đến các tiến trình hội nhập kinh tế trong khu vực? Một trong những kế
hoạch bảo vệ vai trò thống lĩnh của Mỹ ở khu vực là việc thành lập Quan
hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Khi còn là ngoại trưởng Mỹ, bà Hillary Clinton
từng nói về “kỷ nguyên Thái Bình Dương của Mỹ” như sau: “Khuyến khích sự
tăng trưởng và năng động của châu Á là lợi ích trung tâm và chiến lược
của Mỹ. Những thị trường mới mở sẽ tạo cho Mỹ những cơ hội chưa từng có
để đầu tư, buôn bán và tiếp cận công nghệ mới. Sự hồi phục kinh tế của
chúng ta sẽ phụ thuộc vào việc xuất khẩu và năng lực của các công ty Mỹ
tiếp cận thị trường tiêu dùng khổng lồ đang phát triển này của châu Á”.
Cho đến nay, Trung Quốc là đối tác khá hấp dẫn
của Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác, thế nhưng những lo ngại về
“mối đe dọa Trung Quốc” không phải là không có cơ sở, được xác tín thêm
bởi những hành động xâm lược của Bắc Kinh đối với láng giềng, đã vô hình
trung đẩy các quốc gia này về phía hợp tác với Mỹ trong khuôn khổ TPP.
Ngoài Việt Nam, các thành viên được đề nghị vào
TPP còn có một số quốc gia Đông Á và Đông Nam Á khác, trong số này có
Nhật, Malaysia. Có thể giả định rằng trong trường hợp Nhật và ASEAN tham
gia TPP, việc hạn chế buôn bán với các nước này sẽ ảnh hưởng tiêu cực
lên kinh tế Trung Quốc, bởi sự phụ thuộc của kinh tế Trung Quốc vào các
nước ASEAN và Nhật là khá lớn.
Như cố vấn của Đại sứ quán Belarus tại Nhật, ông
Sergey Terentyev, chỉ ra: “Những nghiên cứu tiến hành trong năm 2009
cho thấy, nói riêng, để xuất khẩu 100 đơn vị sản phẩm, Trung Quốc phải
nhập 60 đơn vị các linh kiện tính theo giá trị. Gần 2/3 số hàng nhập
khẩu của Trung Quốc sau khi xử lý được xuất khẩu và chỉ 1/3 dùng cho thị
trường nội địa.
Như vậy tính ra trong hình ảnh Trung Quốc như
một nhà sản xuất toàn cầu hàng tiêu dùng, hết 2/3 là nhờ sự đóng góp của
Nhật và ASEAN. Đó là chưa tính sự tham gia của Nhật và các nước khác
trong sự phát triển kinh tế của Trung Quốc thông qua các khoản đầu tư và
công nghệ”.

Tổng thống Nga V. Putin (trái) trong chuyến thăm Thượng Hải tháng 5-2014 - Ảnh: Getty Images
“Bản đồ lộ trình” cho nước Nga
Từ những phân tích trên, có thể giả định:
1) Mối quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc khiến
Nga có nguy cơ mất đi đồng minh ở châu Á - Thái Bình Dương, đẩy họ đến
với Mỹ. Nếu Mỹ có thể thực hiện thành công kế hoạch khống chế sự bành
trướng của Trung Quốc về phía nam, thì có thể dự đoán sự mở rộng của
Trung Quốc sẽ chuyển hướng về các lãnh thổ Nga.
2) Đồng thời có thể nhận thấy rằng trong trường
hợp quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc, việc thực hiện các lợi ích của
Nga trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ lệ thuộc vào ý muốn của
Bắc Kinh. Nhiều khả năng Nga sẽ chỉ được (Trung Quốc) cho đến những vùng
nào ở châu Á - Thái Bình Dương có lợi cho Trung Quốc.
Trên thực tế, đó là một hạn chế đáng kể sự tiếp
cận chính trị của Nga đối với khu vực quan trọng về chiến lược, như được
nêu trong “Các quan điểm chính sách đối ngoại của Liên bang Nga”, khu
vực đang trở thành một trung tâm quyền lực kinh tế và chính trị thế giới
mới.
3) Để tránh bị bỏ qua bên lề, Liên bang Nga cần
nhanh chóng sử dụng hiệu quả tối đa tình thế chính trị đối ngoại hiện
nay để thực hiện các bước đi có lợi cho quốc gia. Không nên hi sinh
nhiệm vụ củng cố các vị thế của Nga ở châu Á - Thái Bình Dương cho quan
hệ đối tác Nga - Trung.
Tăng cường vị thế của mình ở châu Á - Thái Bình
Dương, trở thành một “lực lượng thứ ba” trong khu vực này, Nga có thể
chiếm một vị trí xứng đáng trên vũ đài quốc tế, vượt qua Mỹ và Trung
Quốc.
GLEB SHUTOV
(Trung tâm nghiên cứu chính sách và chiến lược quốc tế Belarus)
(Trung tâm nghiên cứu chính sách và chiến lược quốc tế Belarus)
DUY VĂN lược dịch
(*): Pháp gia là một trong bốn trường phái triết
lý thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Pháp gia ở đây mang ý nghĩa “triết lý
chính trị tán thành sự cai trị của pháp luật“. Tuy nhiên, quyền lựa chọn
luật pháp để mang ra thi hành chỉ nằm trong tay hoàng đế. Đa số các nhà
triết học và tư tưởng chính trị Trung Quốc có cái nhìn rất tiêu cực đối
với Pháp gia, buộc tội nó tạo ra một xã hội chuyên chế.