Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

Trung Quốc xây căn cứ trên đảo Gạc Ma

 Tờ Hoàn Cầu Thời Báo, một tờ báo của Đảng cộng sản Trung Quốc, tiết lộ hôm 25/5 là Bắc Kinh đang cho xây dựng một đảo nhân tạo tại đảo đá ngầm Gạc Ma.

Hòn đảo nhân tạo sẽ do Viện Nghiên cứu và Thiết kế đóng tàu số 9 (NDRI), có trụ sở ở Thượng Hải triển khai. Vị trí hòn đảo nhân tạo dự kiến ở quanh bãi Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Bãi đá này bị Trung Quốc chiếm giữ trái phép từ năm 1988.
Trung Quốc đang xây dựng căn cứ ở Gạc Ma.
Trung Quốc đang xây dựng căn cứ ở Gạc Ma.

Tờ báo cho biết Trung Quốc dự kiến xây dựng các cơ sở quân sự, bao gồm một căn cứ không quân và cảng hải quân, trên hòn đảo nhân tạo. Hòn đảo sẽ được sử dụng với mục đích chính là tăng khả năng phản ứng nhanh cho các chiến hạm và lực lượng an ninh hàng hải của Trung Quốc nếu có sự cố xảy ra trong khu vực.
Mô hình đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây ở Gạc Ma (Ảnh: gywb.cn)
Mô hình đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây ở Gạc Ma (Ảnh: gywb.cn)

Đảo đá ngầm Gạc Ma (tên anh ngữ là Johnson Reef) là một rạn san hô thuộc cụm Sinh Tồn. Đá Gạc Ma nằm cách đảo đá Cô Lin hơn 3 km về phía Đông Nam và đánh dấu điểm cuối ở phía Tây Nam của cụm đảo và bãi đá ngầm Sinh Tồn. Đặc điểm của Gạc Ma là rạn đá màu nâu và được bao quanh bởi vành đai san hô trắng. Chỉ có vài hòn đá nổi lên trên mặt biển còn phần lớn chìm dưới nước.

Hiện thực hóa “đường chín đoạn”
Đường chín đoạn (hay còn được gọi là “đường lưỡi bò”) đuợc cho là của Trịnh Tư Ước, nguyên là quan chức phụ trách Vụ Nội chính (chính phủ Trung Hoa Dân Quốc) tiện tay vẽ vào.
Đường chín đoạn được hình thành dựa trên cơ sở “đường mười một đoạn” của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Đường mười một đoạn là đường quốc giới trên biển Đông do mười một đoạn liên tục tạo thành, xuất hiện công khai lần đầu tiên vào tháng 2/1948 trong phụ đồ “Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải” của “Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân Quốc” do Cục Phương vực Bộ Nội chính Trung Hoa Dân Quốc phát hành.
Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sau khi thành lập vẫn xác định cương vực trên biển Đông theo “đường mười một đoạn” của Trung Hoa Dân Quốc. Đến năm 1953 thì bỏ hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, trở thành “đường chín đoạn”.
Đường chín đoạn bao trọn bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông là quần đảo Hoàng Sa, Quần đảo Trường Sa, quần đảo Đông Sa và bãi Macclesfield với khoảng 80% diện tích mặt nước của biển Đông, chỉ còn lại khoảng 20% cho tất cả các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Việt Nam, tức mỗi nước được trung bình 4% (!)
Việc xây đảo nhân tạo tại Gạc Ma, ý đồ của Bắc Kinh là tăng cường khả năng kiểm soát thực tế đối với vùng biển phía nam của “đường chín đoạn”. Trên cơ sở đó thực hiện ý đồ thâu tóm gần như toàn bộ Biển Đông, biến nó thành “ao nhà” của Trung Quốc.
Ngoài ra, đảo nhân tạo còn có vai trò như một trạm hậu cần tiếp tế cho các tàu cá của Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông. Đảo này có thể cũng sẽ có nhà tập thể, tòa nhà hành chính, sân thể thao và nông trại.

Thực hiện chiến lược chống tiếp cận 
Hiện nay, Trung Quốc được cho là đang hoàn thiện chiến lược chống tiếp cận/phong tỏa khu vực (viết tắt là A2/AD), với mục đích nâng cao năng lực phòng thủ – tấn công ở các vùng biển quanh mình, nhằm ngăn chặn hạm đội Mỹ áp sát để tấn công Trung Quốc hoặc hỗ trợ đồng minh.
Qua đó, Trung Quốc có thể duy trì thế mạnh so với các nước khác trong những vùng biển gần, và đẩy khu vực hoạt động của lực lượng Mỹ ra xa. Để triển khai hiệu quả học thuyết của mình, Trung Quốc tập trung xây dựng lực lượng phòng thủ ven bờ, tăng cường năng lực tàu ngầm, cải thiện khả năng phòng không, chiến tranh điện tử và phát triển tên lửa chống tàu, chẳng hạn như tên lửa đạn đạo DF-21D.
Sơ đồ mô tả chiến lược “chống tiếp cận” của Trung Quốc.
Sơ đồ mô tả chiến lược “chống tiếp cận” của Trung Quốc.

Trung Quốc định vị các vành đai phòng thủ này bằng các chuỗi đảo (first and second island chain). Chính vì vậy, tham vọng của Trung Quốc không chỉ nhắm đến các đảo nằm trong tranh chấp mà còn vươn tầm ngắm đến các đảo không hề có tranh chấp gì với Trung Quốc (nghĩa là hoàn toàn thuộc chủ quyền của nước khác)!
Việc xây dựng căn cứ trên đảo đá Gạc Ma cũng nằm trong ý đồ thực hiện chiến lược “chống tiếp cận” của Trung Quốc. Căn cứ này cho phép Trung Quốc nâng cao khả năng đe dọa đối với hạm đội 7 của Mỹ. Nó cũng giúp Trung Quốc dễ dàng hơn trong việc kiểm soát eo biển Malaca, gián tiếp uy hiếp Nhật Bản từ xa.
Việc xây căn cứ Gạc Ma thể hiện việc Trung Quốc muốn củng cố một lối ra Thái Bình Dương, chống lại sự bao vây của Hoa Kỳ. Đồng thời cũng nhằm ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ vào vấn đề Biển Đông, khi có tình huống xung đột xảy ra.

Khống chế Trường Sa, uy hiếp Cam Ranh
Trong âm mưu lâu dài của Trung Quốc, họ sẽ tìm cách chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Tuy nhiên, để làm việc này Bắc Kinh có một số vấn đề. Các đảo ở Trường Sa phần lớn có diện tích nhỏ, dễ chiếm nhưng khó giữ. Giả định Trung Quốc chiếm được thì họ phải duy trì một lực lượng lớn hải quân, không quân và các lực lượng mặt đất để bảo vệ. Đây là vấn đề đau đầu đối với các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc. Nhưng nếu họ xây được căn cứ lớn tại Gạc Ma thì cơ bản giải quyết được vấn đề nêu trên.
Trong tình hình đó, Việt Nam sẽ gặp những bất lợi. Vì căn cứ hải – không quân Trung Quốc đặt tại Gạc Ma, tức ở ngay tại Trường Sa. Trong khi đó, khoảng cách từ căn cứ Cam Ranh ra Trường Sa khoảng từ 400 đến 600km. Ngoài ra, không quân Trung Quốc còn có thể chi viện cho Trường Sa bằng căn cứ trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Nếu Việt – Nhật – Phi liên minh với nhau, không quân Nhật Bản với các chiến đấu cơ tàng hình F-35 mua của Hoa Kỳ, có thể bố trí trên các căn cứ của Philippines gần quần đảo Trường Sa. Trong tình huống xảy ra chiến sự, không quân Việt – Nhật – Phi có thể phối hợp tạo thế “ba mũi giáp công”, thì mới có thể chiếm ưu thế trước không quân Trung Quốc.
Vì vậy, trong tình huống xảy ra xung đột, nếu chỉ một mình độc lập tác chiến, hải quân và không quân Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Điều đó cho thấy, sự thay đổi trong công tác hoạch định chiến lược quân sự của Việt Nam là điều không thể không xét đến.

Diễn văn của Shinzo Abe không "nóng mặt" bằng Chuck Hagel

Shangri-la: Diễn văn của Shinzo Abe không "nóng mặt" bằng Chuck Hagel


(GDVN) - Chuck Hagel đã gọi Biển Đông là "trái tim" khu vực châu Á - Thái Bình Dương và là "ngã tư của nền kinh tế toàn cầu"

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel.
Sam Roggeveen, chuyên gia phân tích tình báo Úc ngày 31/5 bình luận trên tờ The Interpreter, bài diễn văn của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trong buổi khai mạc Đối thoại Shangri-la năm nay diễn ra vào tối qua đã không hoàn toàn giống như những suy đoán trước đó rằng ông sẽ thể hiện Nhật Bản như một đối trọng với Trung Quốc trong khu vực.
Nhưng sức nóng đã tăng đáng kể tại Đối thoại Shangri-la trong phiên họp sáng nay với bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel, trong đó ông chỉ trích thẳng thừng những hành vi khiêu khích của Trung Quốc trên Biển Đông, sau đó là màn chất vấn của cánh đại biểu Trung Quốc.
Chuck Hagel đã gọi Biển Đông là "trái tim" khu vực châu Á - Thái Bình Dương và là "ngã tư của nền kinh tế toàn cầu" trước khi khẳng định các hành vi của Trung Quốc là đơn phương và gây mất ổn định trong khu vực.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cho biết Washington sẽ tôn trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và điều này sẽ không thay đổi. Mỹ giữ cam kết của mình, ông Hagel tuyên bố trước khi thông báo về những cách khác nhau của Washington đang thực hiện để tăng cường liên minh với Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và phát triển quan hệ với Việt Nam.
Cắt giảm chi tiêu quốc phòng của Mỹ sẽ không ảnh hưởng đến kinh phí tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khẳng định.
Roggveen bình luận, bài phát biểu của Bộ trưởng Chuck Hagel đã khẳng định Thủ tướng Shinzo Abe đã đúng khi đặt câu hỏi về việc liệu hiến pháp Nhật Bản có còn phù hợp trước những mối đe dọa của ngày hôm nay.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tại Đối thoại Shangri-la năm nay.
Chuck Hagel cũng xem Ấn Độ như một quốc gia có ảnh hưởng lịch sử trên toàn châu Á trước khi ủng hộ New Delhi ngày càng tăng cường khả năng quân sự của mình và cho rằng Ấn Độ có nhiều khả năng duy trì hòa bình với các nước láng giềng của họ.
Về công thức Obama-Tập Cận Bình mà Bắc Kinh vẫn xem như mô hình quan hệ mới, Chuck Hagel lưu ý, Trung Quốc sử dụng cụm từ này thường giải thích là "mô hình mới của trục quyền lực lớn", đó là một thiếu sót đáng kể khi miễn cưỡng đặt Trung Quốc ở vị thế ngang hàng, bình đẳng với Mỹ.
Một nữ Thiếu tướng Trung Quốc đã truy vấn ông Chuck Hagel rằng Trung Quốc đã vi phạm điều luật nào khi tuyên bố vùng nhận diện phòng không (ADIZ) ở Hoa Đông trong khi Mỹ và các nước khác cũng đã có ADIZ của mình.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã trả lời thẳng vào vấn đề thay vì lan man, ông chỉ rõ ADIZ mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố mà đã không có bất kỳ tham vấn nào với các bên liên quan. Ông cũng nhắc lại lập trường của Mỹ rằng bất kỳ tranh chấp lãnh thổ nào cũng nên được giải quyết một cách hòa bình, và quần đảo Senkaku đã được Nhật Bản quản lý.
Trong tài liệu tóm tắt bài phát biểu của Chuck Hagel tại Đối thoại Shangri-la năm nay được cổng thông tin Bộ Quốc phòng Mỹ đăng tải, Bộ trưởng Hagel nhắc lại, Mỹ không có yêu sách lãnh thổ trên Biển Đông, nhưng Washington chắc chắn phản đối bất kỳ quốc gia nào đe dọa, ép buộc, sử dụng vũ lực để khẳng định tuyên bố của mình.
Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ những nỗ lực của bất kỳ quốc gia nào để giảm căng thẳng và giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế

Mưu đồ của Trung Quốc là tạo một cuộc chiến "nhỏ"

Mưu đồ nham hiểm của Trung Quốc là tạo một cuộc chiến "nhỏ"


(GDVN) - Trung Quốc đang chơi trò chơi tổng bằng không, muốn tiến hành một số cuộc chiến nhỏ mà Mỹ không đáng để tham gia, buộc các nước láng giềng liên kết với nhau.
Tháng 11 năm 2013, Trung Quốc đơn phương lập ra Khu nhận biết phòng không biển Hoa Đông, gây sóng gió cho khu vực

Tờ "The Financial Times" Anh ngày 28 tháng 5 đăng bài viết nhan đề "Trung Quốc 'ra tay trước' với Mỹ, Trung Quốc ngốc nghếch hay thông minh?" của tác giả David Pilling. Bài báo cho rằng, hành động làm láng giềng nổi giận của Bắc Kinh đã trở thành vấn đề chính sách ngoại giao gây tranh cãi.
Những ví dụ khẳng định Trung Quốc thật ngốc nghếch có rất nhiều, mấy tuần gần đây, Bắc Kinh đồng thời "khai chiến" với Việt Nam, Philippines và Nhật Bản. Nói tóm lại, Trung Quốc hầu như do bức bách sự liên kết của láng giềng mà gặp sai lầm. Tất cả những dấu hiệu của “ngoại giao nụ cười” của Trung Quốc đã tắt.
Brad Glosserman, Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế Mỹ cho rằng, Bắc Kinh gây ra loại phiền phức này "khiến cho người ta khó hiểu". Ông đặt câu hỏi trên tạp chí "The National Interest" Mỹ rằng, Trung Quốc, nước đang đối mặt với rất nhiều vấn đề kinh tế và xã hội tiềm tàng, tại sao còn phải làm như vậy?
Giáo sư Hugh White, nhà nghiên cứu chiến lược Đại học quốc gia Australia lại có một quan điểm khác. Ông cho rằng, không nên ngạc nhiên về hành động của Trung Quốc. "Đây là trò chơi tổng bằng không, nếu Trung Quốc sở hữu nhiều quyền lực và sức ảnh hưởng hơn, Mỹ sẽ phải nhượng quyền" - ông nhận định.
Từ đầu tháng 5 năm 2014 đến nay, Trung Quốc cho giàn khoan Hải Dương 981 cùng các loại tàu chiến, máy bay quân sự, tàu hải cảnh... tiến hành xâm lược vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, bất chấp luật pháp quốc tế.

“Trung Quốc muốn gây ra một số cuộc chiến nhỏ”
Trò chơi này là không “đối đẳng”, giống như thực lực quân sự của hai nước, mặc dù không thể so sánh được với tàu sân bay Mỹ, nhưng Trung Quốc có thể dùng tên lửa để bắn chìm tàu sân bay. Để duy trì hiện trạng, Mỹ cần đề phòng nhất cử nhất động của Trung Quốc, trong khi đó Mỹ không làm được điểm này.
Trung Quốc chỉ cần gây ra một số cuộc chiến tranh nhỏ trong đó Mỹ không tham gia là được và Trung Quốc có thể giành “chiến thắng”. Ở đây, vạch ra một Khu nhận biết phòng không, ở kia hạ đặt một giàn khoan... Đương nhiên, ngài Barack Obama có thể vạch ra "giới hạn đỏ". Nhưng, chính điều ông ý thức được ở Syria là, đặt ra "ranh giới đỏ" cũng sẽ rất khó khăn.
Cho nên, Bắc Kinh đang từng bước tạo ra một “hiện thực mới” ở trên biển hoặc trên không. Trung Quốc thông qua mỗi một sự kiện như vậy để gây thách thức cho Mỹ. Có đáng đánh một trận vì một chiếc tàu cá của Việt Nam không? Không đáng. Vì một bãi cát của Philippines? Một hòn đảo nhỏ không người ở? - bài báo bình luận.
Nhìn vào ngắn hạn, loại sách lược này rất có thể buộc các nước láng giềng của Trung Quốc liên kết lại với nhau hoặc dựa nhiều hơn vào mặt trận do Mỹ lãnh đạo. Nhưng, nếu Trung Quốc đang thay đổi cảm nhận và hiện thực của khu vực này thì không quan trọng nữa.
Nghe nói, các nước ASEAN đang áp dụng lập trường thống nhất hơn. Nhưng, đến nay cũng chỉ nói mà thôi. Các nước ASEAN phân thành 2 "phe" - các nước Philippines, Việt Nam có tranh chấp với Trung Quốc và các nước không có tranh chấp với Trung Quốc như Thái Lan, Campuchia. Cho nên, các nước ASEAN thống nhất hành động hầu như rất xa xôi.
Trung Quốc đang chứng minh với láng giềng rằng, ngăn chặn sẽ không có hiệu quả, và đừng trông chờ vào Mỹ bảo vệ họ. Nếu Trung Quốc toại nguyện, các nước láng giềng của Trung Quốc và Mỹ sẽ phải thừa nhận hiện trạng khó có thể tiếp tục. Đây là một chiến lược nguy hiểm, nhưng cũng là một chiến lược "khôn khéo".
Trên đây là toàn bộ nội dung bài báo dưới góc độ cá nhân tác giả, đáng để nghiên cứu suy ngẫm về Trung Quốc trong giai đoạn mới. Qua đó, cho thấy được bản chất thực của Trung Quốc như thế nào và các nước cần cảnh giác, đưa ra các chiến lược và biện pháp ứng phó phù hợp.
Trung Quốc đang tìm cách cưỡng đoạt bãi Cỏ Mây (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam), hiện do Philippines kiểm soát.

Trung Quốc ưu tiên triển khai vũ khí trang bị mới trên Biển Đông, thích tập trận đổ bộ đánh chiếm đảo đá. Trong 11 tàu hộ vệ Type 056 hiện có của Hải quân Trung Quốc có 5 chiếc triển khai ở Biển Đông; cả 3 tàu đổ bộ cỡ lớn Type 071 hiện có của Trung Quốc đều triển khai ở Biển Đông, các vùng biển khác không triển khai; các tàu chiến hiện đại khác đều được Trung Quốc ưu tiên triển khai ở Biển Đông như tàu khu trục Type 052C/052D, tàu hộ vệ Type 054A. Ngay khi mới lên nắm quyền, ông Tập Cận Bình đã 2 lần đến Hạm đội Nam Hải thị sát và truyền "giấc mơ Trung Quốc" trên Biển Đông cho ngư dân đảo Hải Nam, Biển Đông trong mấy năm qua đã thực sự dậy sóng.

Malaysia và Trung Quốc phản đối “bên thứ 3″

Thủ tướng Malaysia và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
Thủ tướng Malaysia và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
Bưu điện Hoa Nam ngày 1/6 đưa tin, Trung Quốc và Malaysia hôm qua đã thể hiện một “mặt trận thống nhất” khi họ đánh dấu kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao trong lúc căng thẳng đang leo thang giữa Bắc Kinh với các nước láng giềng ở Biển Đông.
Thông cáo chung phát hành bởi 2 nước sau chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Malaysia Najib Razak cho biết 2 nước cam kết tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Liên quan đến Biển Đông, các tài liệu cho thấy cả Malaysia và Trung Quốc công nhận rằng “sự can thiệp hoặc tham gia của các bên không liên quan trực tiếp có thể phản tác dụng và làm tăng các vấn đề phức tạp”?!
Malaysia và Trung Quốc kêu gọi “các bên yêu sách chủ quyền trực tiếp ở Biển Đông cần thực hiện tự kiềm chế (?!) và giải quyết sự khác biệt bằng biện pháp hòa bình”, 2 nước này sẽ nỗ lực để hoàn thiện bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).
Chuyến công du Trung Quốc của Thủ tướng Malaysia diễn ra đúng thời điểm căng thẳng bùng lên giữa Trung Quốc và Việt Nam trong vụ giàn khoan 981, Bưu điện Hoa Nam lưu ý.
Trong cuộc hội đàm với ông Najib hôm Thứ Sáu, Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Trung Quốc nói rằng họ sẽ không gây rắc rối ở Biển Đông, nhưng sẽ “phản ứng theo cách cần thiết với những hành động khiêu khích của các nước liên quan”?!
Tang Siew Mun từ Viện Nghiên cứu Chiến lược quốc tế Malaysia cho biết, Bắc Kinh và Kuala Lumpur muốn căng thẳng Trung – Việt trên Biển Đông giảm bớt. Bắc Kinh không muốn quan hệ với 10 nước ASEAN bị ảnh hưởng bởi vấn đề với Việt Nam trong khi Malaysia không muốn lặp lại sai lầm đáng xấu hổ khi đảm nhận ghế Chủ tịch luân phiên ASEAN năm tới.
Thách thức đối với Malaysia là thuyết phục Bắc Kinh rằng chính họ mới cần đi bước đầu tiên để “sửa chữa” mối quan hệ với các nước láng giềng ASEAN.
Nói cách khác, nếu Trung Quốc “chuộng hòa bình, yêu ổn định” như ông Tập Cận Bình nói, hãy rút giàn khoan 981 khỏi vùng biển Việt Nam một cách vô điều kiện, ngồi vào bàn đàm phán ký kết COC và không có những hành động gây hấn trên biển, chia rẽ ASEAN như vừa qua – PV.

Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc khen Hagel


Vương Quán Trung (phải) trong buổi hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel bên lề Đối thoại Shangri-la năm nay
Vương Quán Trung (phải) trong buổi hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel bên lề Đối thoại Shangri-la năm nay.

Kênh ABC Net của Úc ngày 1/6 đưa tin, tại Đối thoại Shangri-la năm nay Mỹ đã cảnh báo Trung Quốc rằng Washington sẽ không còn thụ động nếu trật tự quốc tế đang bị Bắc Kinh đe dọa.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel phát biểu trước diễn đàn an ninh thường niên rằng Trung Quốc phải dừng chiến thuật gây bất ổn trong nỗ lực khẳng định yêu sách (vô lý, bất hợp pháp) của họ ở Biển Đông.
Tháng này, trước thềm Đối thoại Shangri-la Trung Quốc đã kéo giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, gây căng thẳng trong khu vực.
“Trong những tháng gần đây Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động gây mất ổn định, hành động đơn phương khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông”, ông Hagel phát biểu.
“Chúng tôi kiên quyết phản đối bất kỳ quốc gia nào sử dụng vũ lực, ép buộc hoặc đe dọa để khẳng định tuyên bố chủ quyền”, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nhấn mạnh. Ý kiến thẳng trực tiếp “một cách bất thường” của Mỹ đã gây “ngạc nhiên” với các quan chức Trung Quốc.
Sau đó Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã có cuộc gặp song phương với Vương Quán Trung, Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc bên lề Đối thoại Shangri-la.
“Ngài đã rất thẳng thắn sáng nay, và rất bộc trực, nhiều hơn cả mong đợi của chúng tôi” Vương Quán Trung nói với Chuck Hagel, “mặc dù chúng tôi nghĩ rằng những lời chỉ trích không có căn cứ, tôi đánh giá cao sự thẳng thắn của ngài”?!
Từ Bắc Kinh, Tân Hoa Xã dẫn lời Tập Cận Bình nói rằng “Trung Quốc không bao giờ gây rắc rối ở Biển Đông. Nhưng chúng tôi sẽ phản ứng theo cách cần thiết với những hành động khiêu khích của các nước liên quan”?!
Mỹ không phải quốc gia duy nhất tại Đối thoại Shangri-la lên án các hành vi gây hấn của Trung Quốc gần đây. Bộ trưởng Quốc phòng Úc Johnston khẳng định không thể chấp nhận được hành vi dùng vũ lực, cưỡng chế đơn phương để thay đổi hiện trạng ở Biển Đông, Hoa Đông.

Trung Quốc quay sang thúc đẩy hợp tác

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel tiếp xúc song phương với Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc bên lề Đối thoại Shangri-la. Ảnh: Washington Post.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel tiếp xúc song phương với Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc bên lề Đối thoại Shangri-la. Ảnh: Washington Post.

Tờ Bưu điện Washington hôm nay đưa tin, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã có cuộc tiếp xúc ngắn khoảng 20 phút với Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc Vương Quán Trung bên lề Đối thoại Shangri-la ngày hôm qua.
Bắc Kinh cáo buộc ông Chuck Hagel đã sử dụng “ngôn ngữ đe dọa và bất ngờ” trong bài phát biểu trước đó của mình, trong đó Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ chỉ trích Trung Quốc khiêu khích với các nước láng giềng trên Biển Đông.
Vương Quán Trung nói với báo chí ngay sau bài phát biểu của ông Hagel rằng nó “vượt quá mức tương tượng, tràn ngập chủ nghĩa bá chủ và đe dọa”. Nhưng khi vào cuộc họp với đoàn Mỹ, Vương Quán Trung chỉ “khen đểu” Chuck Hagel là thẳng thắn và bộc trực trước khi nói rằng chỉ trích của ông là vô căn cứ.
Các quan chức quốc phòng Mỹ nói rằng Hagel đã cố tình sử dụng ngôn ngữ mạnh mẽ trong bài phát biểu của mình để chỉ trích Trung Quốc hành động đơn phương, gây mất ổn định sau những hành động leo thang gần đây.
Phần lớn những thảo luận còn lại giữa 2 đoàn quân sự Trung – Mỹ bên lề Đối thoại Shangri-la là “hợp tác và thân thiện”, tập trung vào việc cải thiện sự hợp tác quân sự song phương.
“Các thông tin phản hồi rất tích cực, đặc biệt là vấn đề tranh chấp trên biển”, quan chức quốc phòng Mỹ cho biết.
Trong các cuộc tiếp xúc riêng khác bên lề Đối thoại Shangri-la, một số đối tác của Mỹ đã đặt câu hỏi về việc Mỹ sẽ sử dụng vũ lực như thế nào nếu nó cần thiết để thực hiện các điều ước an ninh.

Báo Trung Quốc: Việt Nam ôm chân Mỹ



Thượng nghị sĩ Mỹ Benjamin Cardin vừa đến thăm Việt Nam
Thượng nghị sĩ Mỹ Benjamin Cardin vừa đến thăm Việt Nam

Tờ “Nhật báo kinh tế Cam Túc” Trung Quốc ngày 30 tháng 5 có bài viết cho rằng, thượng nghị sĩ Mỹ Benjamin Cardin vừa thăm Việt Nam, đã được Việt Nam hoan nghênh (bài báo cho ông là “chúa cứu thế”), ông Cardin được rất nhiều quan chức cấp cao Việt Nam như Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng tiếp kiến, truyền thông thì tích cực đăng tải sự ủng hộ đối với ông, cho biết, thượng nghị sĩ Mỹ phê phán hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông.
Theo bài báo, thời điểm ông Benjamin Cardin thăm Việt Nam đúng vào lúc “tranh chấp Biển Đông giữa Trung-Việt” (thực chất là Trung Quốc xâm lược vùng biển chủ quyền của Việt Nam) nóng lên nhanh chóng, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam mà bài báo vu vạ cho rằng chính quyền Việt Nam dung túng, đã “không dọa được hoạt động (trái phép) giàn khoan Trung Quốc ở Biển Đông”, trái lại, bài báo cho là kinh tế và hình ảnh của Việt Nam bị tổn thương, do đó Việt Nam cần gấp một “ân nhân cứu mạng” (?).
Theo báo chí Việt Nam, các đại biểu Quốc hội Việt Nam đã yêu cầu chính phủ công bố kế hoạch để doanh nghiệp, người dân tìm hiểu cách thức ứng phó của chính phủ đối với tác động ảnh hưởng từ căng thẳng trên Biển Đông. Phó Thủ tướng Việt Nam tuyên bố, Việt Nam đang tích cực kiểm soát tình hình.
Bài báo dẫn bình luận của 1 “học giả” cho biết, kế hoạch ứng phó Trung Quốc của chính quyền và các nhà chiến lược Việt Nam gồm: Một là “lôi kéo” (hợp tác) Mỹ, Nhật Bản và Philippines cùng tạo ra môi trường quốc tế để Trung Quốc phải đối mặt với áp lực. Hai là theo đuổi “bảo đảm triệt tiêu lẫn nhau” giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh – báo Trung Quốc thêm lời xuyên tạc.
Trung Quốc luôn bố trí lượng lớn tàu xung quanh giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt trái phép ở vùng biển chủ quyền của Việt Nam, trong đó có tàu quân sự, hải cảnh, tàu cá...
Trung Quốc luôn bố trí lượng lớn tàu xung quanh giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt trái phép ở vùng biển chủ quyền của Việt Nam, trong đó có tàu quân sự, hải cảnh, tàu cá...

Học giả Trung Quốc Tôn Tiểu Nghênh ngày 28 tháng 5 cho rằng, Việt Nam đã có chút “hoảng sợ”, theo đuổi “bảo đảm triệt tiêu lẫn nhau” sẽ chỉ làm hao tổn bản thân, chỉ cần Trung Quốc giữ kiên định, Việt Nam “ôm chân ai” đều không có tác dụng – báo Trung Quốc tiếp tục tuyên truyền xuyên tạc xấu về Việt Nam.

Việt Nam coi trọng sự ủng hộ của Mỹ
Bài báo dẫn lời người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Cảnh Nhạn Sinh ngày 29 tháng 5 cho rằng, từ ngày 2 tháng 5 đến nay, Việt Nam đã điều nhiều loại tàu tiến hành “quấy rối” (thực ra là chấp pháp) đối với hoạt động của giàn khoan (trái phép) Trung Quốc tại “vùng biển quần đảo Tây Sa” (thực chất là vùng biển chủ quyền của Việt Nam).
Cảnh Nhạn Sinh lớn tiếng và trịch thượng dọa nạt rằng, quân đội Trung Quốc đang thực hiện “chức trách bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân” (thực chất là đi cướp biển của nước khác), sẽ “căn cứ vào việc triển khai thống nhất của nhà nước, làm tốt các công việc liên quan”, rằng “quyết tâm và ý chí bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi biển quốc gia của quân đội Trung Quốc là kiên định, không thay đổi, trong vấn đề này tuyệt đối không có chỗ cho mặc cả, cũng quyết không cho phép bất cứ hành vi khiêu khích nào”.
Bài báo xuyên tạc cho rằng, thượng nghị sĩ Mỹ Benjamin Cardin đến thăm được truyền thông Việt Nam đăng tải như là “Việt Nam tìm được chỗ dựa”. Theo bài báo, trong nhiều ngày qua, tranh thủ tiếng nói ủng hộ trong và ngoài nước liên quan đến “tranh chấp Biển Đông” là đặc sắc lớn nhất của các phương tiện truyền thông Việt Nam”.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki gọi việc Trung Quốc lắp đặt giàn khoan dầu khí ở vùng biển tranh chấp là "khiêu khích và nguy hiểm”.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki gọi việc Trung Quốc lắp đặt giàn khoan dầu khí ở vùng biển tranh chấp là "khiêu khích và nguy hiểm”.

Theo nhận định xằng bậy của bài báo, truyền thông Việt Nam đã chú ý đăng tải hình ảnh bắt tay giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với thượng nghị sĩ Mỹ Benjamin Cardin. Trong cuộc gặp này, Thủ tướng Việt Nam đã cảm ơn phía Mỹ đã bày tỏ thái độ phản đối Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, đồng thời hy vọng Mỹ tiếp tục có hành động mạnh mẽ phản đối hành vi nói trên của Trung Quốc.
Thượng nghị sĩ Mỹ Benjamin Cardin cho biết, ông sẽ tham dự Đối thoại Shangri-La và sẽ đưa ra sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 và tiến hành thảo luận về các vấn đề như tình hình căng thẳng biển Hoa Đông. Đối với cuộc gặp này, báo chí Việt Nam cho rằng, Việt Nam mong muốn thúc đẩy hợp tác toàn diện với Mỹ.
Theo tuyên truyền có chủ ý xuyên tạc của báo Trung Quốc thì Đài tiếng nói nước Nga ngày 28 tháng 5 dẫn lời học giả Viện khoa học Nga Vinogradov cho rằng, “Mỹ có ý định lợi dụng tranh chấp khu vực để tối đa hóa lợi ích của họ, Mỹ cho rằng không thể để điểm nóng ở châu Á-Thái Bình Dương mất đi tính gay gắt”.
Theo bài báo, dựa vào Mỹ chỉ là một trong những cách thức để Việt Nam thoát khỏi tình hình khó khăn hiện nay. Vào ngày 27 tháng 5, cựu Đại sứ Việt Nam tại Liên hợp quốc đề nghị, Việt Nam cần nhanh chóng đưa vấn đề giàn khoan 981 của Trung Quốc lên Hội đồng Bảo an và Đại hội đồng Liên hợp quốc. Nhưng, ông cũng dự kiến, là một thành viên của Hội đồng Bảo an, Trung Quốc có thể tiến hành phủ quyết và cũng sử dụng vai trò ảnh hưởng của họ tại Đại hội đồng.
Ngày 28 tháng 5, Phái đoàn Đại diện Thường trực nước ta tại Liên hợp quốc đã gửi thư cho Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon đề nghị lưu hành Công hàm của Bộ Ngoại giao nước ta gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc, phản đối Trung Quốc không chịu chấm dứt các hoạt động vi phạm chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế của VN theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.
Ngày 28 tháng 5, Phái đoàn Đại diện Thường trực nước ta tại Liên hợp quốc đã gửi thư cho Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon đề nghị lưu hành Công hàm của Bộ Ngoại giao nước ta gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc, phản đối Trung Quốc không chịu chấm dứt các hoạt động vi phạm chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế của VN theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.

Ngày 28 tháng 5, các phương tiện truyền thông Việt Nam đưa tin, Việt Nam đã làm tốt công tác chuẩn bị cho việc kiện Trung Quốc ở tòa án quốc tế.
Học giả Australia Carl Thayer ngày 28 tháng 5 nói với tờ “Học giả Ngoại giao” Nhật Bản rằng, một số nhà phân tích ở Việt Nam cho rằng, Trung Quốc đang tiến hanh một “cuộc chiến tiêu hao” không cân bằng ở Biển Đông với Việt Nam, tàu Việt Nam không thể địch nổi tàu Trung Quốc lớn hơn, theo tốc độ tổn hại hiện nay, Việt Nam có thể “không có đủ tàu” để chống Trung Quốc.
Việt Nam cũng đang cân nhắc hợp tác với Mỹ, một đề nghị là đẩy nhanh hợp tác giữa Cảnh sát biển hai nước. Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ (cảnh sát biển) có thể đến vùng biển Việt Nam để tiến hành huấn luyện liên hợp, hai bên có thể trao đổi quan sát viên.
Căn cứ vào hiệp định hợp tác quốc phòng tăng cường ký kết cách đây không lâu, máy bay trinh sát biển của hải quân Mỹ triển khai ở Philippines có thể lâm thời điều đến Việt Nam. Chúng có thể tiến hành diễn tập do thám trên biển liên hợp với phía Việt Nam. Nhân viên quân đội Mỹ có thể làm quan sát viên lên máy bay trinh sát của Việt Nam.

Máy bay tuần tra săn ngầm P-8A Poseidon của Hải quân Mỹ
Máy bay tuần tra săn ngầm P-8A Poseidon của Hải quân Mỹ

Đô đốc Mỹ: Trung Quốc đi sai đường


Đô đốc Samuel Locklear.
Đô đốc Samuel Locklear.

The Wall Street Journal ngày 31/5 đưa tin, Trung Quốc cần phải thay đổi cách tiếp cận với những tranh chấp trong khu vực, đặc biệt là việc đối đầu có khả năng trở nên ngày càng thường xuyên hơn.
Trong khi đồng ý rằng châu Á cần sự lãnh đạo của Trung Quốc, Đô đốc Samuel Locklear – Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của hải quân Mỹ cho rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ phải đưa ra quyết định về cách họ sẽ giúp khu vực này chứ không phải đặt ra thách thức với sự ổn định của khu vực.
“Các cách mà họ đối phó trong tranh chấp lãnh thổ hiện tại không giúp gì cho khu vực”, Locklear nói với The Wall Street Journal bên lề Đối thoại Shangri-la, Bắc Kinh phải xuống thang bằng con đường thỏa hiệp dựa trên một khung pháp lý công bằng.
Trước đó Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel sáng nay đã tuyên bố Trung Quốc hành động đơn phương gây mất ổn định trên Biển Đông, phá hoại các quy định của luật pháp quốc tế.
Trung Quốc đã bị chỉ trích ngày càng tăng từ các quốc gia trên khắp châu Á kể từ khi hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam trong những tuần gần đây và thực hiện các bước khác để hiện thực hóa yêu sách “chủ quyền” (vô lý, bất hợp pháp).
Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương khẳng định: Chiến lược của Mỹ là xem Trung Quốc như một đối tác có giá trị, về những cáo buộc Mỹ kiềm chế Trung Quốc, ông Locklear cho rằng chỉ khi nào Trung Quốc muốn bị khống chế bởi chính các hành động của họ, đó là cách duy nhất chúng ta có thể kiềm chế Trung Quốc.
Chu Thành Hổ, viên tướng Trung Quốc thách thức Mỹ.
Chu Thành Hổ, viên tướng Trung Quốc thách thức Mỹ.

Sau bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã vấp phải một phản ứng hiếu chiến từ Thiếu tướng Trung Quốc Diêu Vân Trúc, người đặt câu hỏi về vai trò trung lập của Mỹ trong các tranh chấp lãnh thổ ở Đông Á.
Một viên Thiếu tướng khác trong đoàn Trung Quốc, Chu Thành Hổ nói rằng Trung Quốc “đâu có ngu để tin rằng Mỹ trung lập” hay việc Washington xem Bắc Kinh như một đối tác bình đẳng. Mỹ đối xử với Trung Quốc như một kẻ thù, không phải đối tác?!
Bất chấp những phát ngôn hiếu chiến của đoàn Trung Quốc, Đô đốc Locklear bày tỏ tin tưởng rằng các nước châu Á ngày càng đồng thuận rằng các tranh chấp phải được giải quyết thông qua đối thoại hòa bình.
Đồng thời Samuel Locklear nhấn mạnh thêm, sẽ là một sai lầm nếu giải thích chiến lược trục châu Á của Mỹ là Washington sẽ trở thành “cảnh sát khu vực” giải quyết mọi vấn đề

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh gặp đối tác Mỹ, Pháp và Anh

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh gặp đối tác Mỹ, Pháp và Anh

(TTXVN/Vietnam+)

 Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã có các cuộc tiếp xúc song phương với Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian (Ảnh: Lê Hải/Singapore/TTXVN)

Theo phóng viên TTXVN tại Singapore, ngày 31/5, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã có các cuộc tiếp xúc song phương riêng rẽ với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian và Bộ trưởng Quốc phòng Anh Philip Hammond, bên lề Đối thoại Shangri-La lần thứ 13 do Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS) tổ chức tại Singapore từ ngày 30/5 đến ngày 1/6.

Tại cuộc gặp giữa hai bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam và Mỹ, hai bên thống nhất sẽ tăng cường hợp tác trong vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh, rà phá bom mìn và khắc phục hậu quả dioxin ở Việt Nam.

Về tình hình ở Biển Đông hiện nay, hai bộ trưởng thống nhất về sự cần thiết phải tôn trọng luật pháp quốc tế cũng như tầm quan trọng của việc giữ gìn hòa bình, ổn định, đảm bảo an ninh, tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông.

Bên cạnh đó, hai bên cũng trao đổi hết sức cởi mở, thẳng thắn với tinh thần hiểu biết lẫn nhau, tinh thần xây dựng vì mục đích chung là giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Cuộc gặp giữa Bộ trưởng Phùng Quang Thanh và người đồng cấp Mỹ Chuck Hagel diễn ra ngay sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ có bài phát biểu trong phiên toàn thể thứ nhất với chủ đề "Đóng góp của Mỹ đối với sự ổn định của khu vực".

Phát biểu với báo giới dự Đối thoại Shangri-La lần thứ 13, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đánh giá cao nội dung bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong đó nhấn mạnh các quốc gia phải có trách nhiệm cùng nhau giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định và tuân thủ luật pháp quốc tế.

Trong các cuộc gặp song phương riêng rẽ với Bộ trưởng Quốc phòng Anh và Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, hai đối tác Anh và Pháp đều bày tỏ sự quan tâm tới tình hình căng thẳng ở Biển Đông từ khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou 981) trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.  Bộ trưởng Quốc phòng Anh Philip Hammond nhấn mạnh Anh ủng hộ tuyên bố của Liên minh châu Âu, theo đó bày tỏ quan ngại về những rắc rối giữa Trung Quốc và Việt Nam liên quan đến hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 và kêu gọi các bên thực hiện các biện pháp nhằm làm giảm căng thẳng và tránh đưa ra các hành động đơn phương có thể gây bất lợi cho hòa bình và ổn định tại khu vực.

Bộ trưởng Hammond nêu rõ Anh không đứng về bên nào trong tranh chấp tại Biển Đông và Anh phản đối việc sử dụng vũ lực trong việc giải quyết bất cứ tranh chấp nào.

Về phần mình, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian bày tỏ sự ủng hộ đối với việc giải quyết các bất đồng thông qua biện pháp hòa bình.

Cùng ngày, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng nước ta, đã làm việc với Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân Mỹ./.

Ông Hagel làm nóng ngày thứ 2 Đối thoại

Phát biểu của ông Hagel làm nóng ngày thứ 2 Đối thoại Shangri-La 13

(TTXVN/Vietnam+)

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel phát biểu tại Đối thoại Shangri-La. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Ngày 31/5, Đối thoại Shangri-La hay còn gọi Hội nghị thượng đỉnh An ninh châu Á (IISS) bước sang ngày làm việc thứ hai với 3 phiên thảo luận chung, 5 phiên thảo luận nhóm và nhiều cuộc gặp song phương.

Trước đó, tối 30/5, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã có bài phát biểu dẫn đề quan trọng.

Theo phóng viên TTXVN tại Singapore, trong phiên thảo luận chung đầu tiên với chủ đề "Đóng góp của Mỹ cho sự ổn định của khu vực", Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã mạnh mẽ cáo buộc Trung Quốc có những hành động làm khu vực Biển Đông thêm căng thẳng, như tiến hành hạ đặt giàn khoan dầu Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam, ngăn cản Philippines tiếp cận bãi cạn Scarborough.
Ông nêu rõ trong những tháng vừa qua,Trung Quốc đã có những hành động đơn phương, gây bất ổn nhằm củng cố yêu sách chủ quyền của mình ở Biển Đông. Ông cho biết Mỹ không đứng về phía nào, nhưng phản đối việc bất kỳ quốc gia nào không tuân thủ luật pháp quốc tế.
Bên cạnh đó, ông Hagel cũng khẳng định chiến lược tái cân bằng của Mỹ sẽ vẫn tiếp tục được duy trì. Ông nêu rõ việc Mỹ cắt giảm chi tiêu quân sự không có nghĩa là giảm cam kết của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nền trật tự hòa bình, thịnh vượng, ổn định lâu dài không thể tự duy trì và các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương cần phải hợp tác với nhau để đạt được điều này.

Cam kết tăng cường quan hệ với các đồng minh trong khu vực, Bộ trưởng Hagel cũng nêu rõ Mỹ ủng hộ các đồng minh tăng cường sức mạnh quốc phòng, như nỗ lực của Thủ tướng Nhật Bản Abe nhằm tái định hình vai trò của quân đội Nhật Bản hướng tới việc chủ động giúp xây dựng một trật tự khu vực hòa bình và ổn định.

Trả lời câu hỏi về việc Mỹ cần trở lại châu Âu hay không, ông Hagel nhấn mạnh Mỹ phải duy trì tăng cường quân sự để đáp ứng với những thay đổi ở cả châu Âu và châu Á. Mỹ đã và sẵn sàng triển khai tất cả các cam kết của mình ở bất kỳ nơi nào trên thế giới.

Cũng trong ngày thứ hai của Diễn đàn, các bộ trưởng Quốc phòng của Việt Nam, Australia, Indonesia, Nhật Bản, Philippines và Anh đã có các phát biểu tại các phiên họp toàn thể về "Quản lý căng thẳng chiến lược" và "Hợp tác hiện đại hóa quốc phòng".

Các bộ trưởng tập trung thảo luận vấn đề duy trì an ninh khu vực, trong đó có việc giải quyết căng thẳng trên biển.

Ngày 1/6, Đối thoại Shangri-La bước sang ngày họp thứ ba và cũng là ngày cuối cùng với các phiên hợp toàn thể về duy trì hòa bình và an ninh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương./.

Trung Quốc bực tức với phát biểu của Thủ tướng Nhật

Trung Quốc bực tức với phát biểu của Thủ tướng Nhật ở Shangri-La

(Vietnam+) 

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tại Đối thoại Shangri-La (Nguồn: AP)

Ngày 31/5, Trung Quốc đã bác bỏ những tuyên bố gần đây của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe liên quan đến các vụ tranh chấp trên biển tại diễn đàn Đối thoại Shangri-La ở Singapore hôm 30/5.
Theo Tân Hoa xã, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương đã hối thúc Tokyo "tôn trọng sự thật và không kích động thù hằn cũng như đánh lạc hướng dư luận".
"Chúng tôi đã lưu ý đến các bình luận gần đây của lãnh đạo Nhật Bản, trong đó ông ta nói bóng gió về các nước khác. Trên thực tế, Nhật Bản cần làm rõ với cộng đồng quốc tế những động thái gần đây của họ trong lĩnh vực an ninh quân sự, đồng thời tuân thủ luật pháp quốc tế và các thông lệ nền tảng chi phối các mối quan hệ quốc tế trong khi giải quyết tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải với các nước láng giềng của họ," Tân Hoa xã dẫn lời ông Tần Cương.
Bên cạnh đó, ông Tần Cương cũng nói rằng Nhật Bản cần có nhiều hành động thiết thực hơn để giúp duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
Phát biểu tại Đối thoại Shangri-La ngay 30/5, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã cam kết ủng hộ các nước ASEAN trong các vụ tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, đồng thời khẳng định việc sử dụng vũ lực và hăm dọa hòng thay đổi hiện trạng là hành động không thể biện hộ.

Thủ tướng Abe nêu rõ: "Nhật Bản sẽ ủng hộ hết mình những nỗ lực của các nước ASEAN khi họ hành động để đảm bảo an ninh trên biển và trên không, cũng như duy trì triệt để sự tự do hàng hải và tự do hàng không..."./.

Luận điệu tởm lợm xuất hiện: Nhật xâm lược HS, TS


Phó Oánh - chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Quốc hội Trung Quốc tại Đối thoại Shangri-La 2014
Phó Oánh - chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Quốc hội Trung Quốc tại Đối thoại Shangri-La 2014

Tân Hoa xã ngày 31 tháng 5 và tờ “Nhật báo Ma Cao” ngày 1 tháng 6 đều có bài viết cho hay, chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Quốc hội Trung Quốc, Phó Oánh đã tham gia thảo luận tại một diễn đàn nhỏ mang chủ đề “Những thách thức của bảo vệ và quản lý đại dương”.
Bà Phó Oánh cho rằng, biển là tài sản quý báu của loài người, đại dương đối mặt với các thảm họa tự nhiên như sóng thần, bão tố, các sự cố cùng với các thách thức do con người gây ra như tràn dầu trên biển, sự cố trên biển-trên không, cướp biển, khủng bố, tranh chấp biển. Các mối đe dọa an ninh quân sự trên biển, mâu thuẫn và xung đột lợi ích trên đất liền cũng sẽ phản ánh ở trên biển.
Khi nói đến tự do ở vùng biển quốc tế, bà Oánh cho rằng, chế độ luật biển quốc tế và thông lệ quốc tế có quy định rõ ràng đối với tự do ở vùng biển quốc tế, có các quyền tự do như đi lại, bay qua, bắt cá và tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học, đồng thời các nước đều phải có nghĩa vụ, thúc đẩy sử dụng hòa bình đại dương, bảo vệ môi trường biển.
Luật pháp quốc tế không thuộc quốc gia hay cá nhân nào, không nên bị “tùy tiện xuyên tạc”, chẳng hạn “Nhật Bản nên chấm dứt mượn danh nghĩa nghiên cứu khoa học để bắt cá voi”.
Trên thực tế, có lẽ bà Oánh nói mà không biết ngượng mồm. Trung Quốc dùng vũ lực xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam (các năm 1974, 1988…), cho giàn khoan, tàu chiến, máy bay quân sự… vào xâm lược vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam… (từ đầu tháng 5/2014) thì rõ ràng là bất chấp luật pháp quốc tế.
Chẳng có ai thừa nhận cho các hành động đó của Trung Quốc cả. “Đường lưỡi bò” Trung Quốc vẽ bậy cũng chẳng có chứng cứ pháp lý nào bảo vệ cả, ngay lịch sử Trung Quốc đã bác bỏ hiệu quả đối với cuồng vọng của Trung Quốc hiện nay.
Tàu tuần tiễu săn ngầm Hải quân Trung Quốc tham gia xâm lược vùng biển chủ quyền của Việt Nam
Tàu tuần tiễu săn ngầm Hải quân Trung Quốc tham gia xâm lược vùng biển chủ quyền của Việt Nam

Tại Đối thoại Shangri-La lần này, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Thủ tướng Nhật Bản và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ v.v… đều nhấn mạnh Trung Quốc phải tuân thủ luật pháp quốc tế, không cho phép các hành động đơn phương dùng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, bất chấp luật pháp quốc tế. Trung Quốc có lẽ phải cảm thấy bẽ mặt và xem xét lại hành vi của mình chứ.
Theo phát biểu của bà Oánh: Các nước trên thế giới có trách nhiệm cùng nỗ lực bảo vệ tự do và an ninh hàng hải quốc tế. Trung Quốc rất coi trọng đối với vấn đề này, bởi vì trên 80% thương mại của Trung Quốc đi bằng đường biển, lượng tàu thuyền, trọng tải đều đứng hàng đầu thế giới, trong số 10 cảng container lớn của thế giới thì Trung Quốc có 6 cảng.
Theo bà ta thì Biển Đông càng là “tuyến đường chính của thương mại và vận chuyển năng lượng của Trung Quốc”.
Những năm gần đây, Trung Quốc “tích cực tham gia hợp tác an ninh các tuyến đường quốc tế”, trở thành người cung cấp “sản phẩm an ninh công của các tuyến đường”.
Tuy nhiên, nhìn vào phát biểu này thì hành động trên thực tế ở Biển Đông của Trung Quốc thì ngược lại. Trung Quốc đang làm cản trở tuyến đường thương mại trên Biển Đông khi cho tàu quân sự, tàu hải cảnh và nhiều loại tàu khác ngang nhiên quậy phá ở vùng biển chủ quyền của Việt Nam, bất chấp luật pháp quốc tế.
“Hành động cực kỳ nguy hiểm này đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông” – Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 24 tại Myanmar.
Thủ tướng Nguyễn Tuấn Dũng phát biểu tại Hội nghị cấp cao ASEAN
Thủ tướng Nguyễn Tuấn Dũng phát biểu tại Hội nghị cấp cao ASEAN
Phó Oánh nói tiếp, cho rằng, Trung Quốc nhất quán tích cực tham gia và thúc đẩy hợp tác trên biển theo “cơ chế đa phương khu vực”, chương trình hợp tác do Trung Quốc đảm đương trong khuôn khổ ARF là nhiều nhất. Năm 2015, Trung Quốc sẽ còn cùng Malaysia tổ chức diễn tập cứu nạn lần thứ tư của ARF.

Luận điệu mới: “Nhật Bản xâm lược Hoàng Sa, Trường Sa”
Trung Quốc đòi cướp nốt quần đảo Trường Sa
Khi trả lời vấn đề Biển Đông do đại diện Nhật Bản đưa ra, Phó Oánh đã xuyên tạc và lừa đảo, cho rằng, căn cứ vào “Thông cáo Potsdam” và “Tuyên bố Cairo”, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa “bị Nhật Bản xâm lược” đều là “Trung Quốc thu hồi”.
Theo luận điệu của bà ta, là một trong những nước chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ hai – Mỹ, cùng với nước chiến bại – Nhật Bản “hiểu rất rõ” đối với giai đoạn lịch sử này.
Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc xâm lược năm 1974 và nay chiếm đóng bất hợp pháp. Kẻ nào dùng vũ lực xâm lược lãnh thổ của nước khác sẽ không bao giờ được công nhận là họ có chủ quyền đối với nó.
Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc xâm lược năm 1974 và nay chiếm đóng bất hợp pháp. Kẻ nào dùng vũ lực xâm lược lãnh thổ của nước khác sẽ không bao giờ được công nhận là họ có chủ quyền đối với nó.

Bà Oánh bịa đặt và đe dọa: “Tranh chấp quần đảo Trường Sa sau này mới xuất hiện. Nhiều năm qua, Trung Quốc và các nước có liên quan kiên trì dùng phương thức hiệp thương hòa bình để đàm phán giải quyết, trước khi giải quyết, cần tăng cường đối thoại, quản lý và kiểm soát bất đồng, cùng bảo vệ ổn định và an ninh trên biển, đồng thời tích cực bàn thảo con đường hợp tác phát triển. Đối với quốc gia cá biệt đơn phương phá hoại đồng thuận, gây tranh chấp, cũng phải ngăn chặn”.
Phát biểu của bà Oánh đúng là một phát biểu ngông cuồng. Như vậy là, trong mấy ngày qua, Trung Quốc đã 2 lần xuyên tạc cho rằng, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam từng “bị Nhật Bản xâm lược” và căn cứ vào các văn kiện quốc tế như “Thông cáo Potsdam” và “Tuyên bố Cairo” thì Trung Quốc phải “thu hồi” chúng.
Như vậy, rõ ràng, đây là điều không thể chấp nhận. Cái này, các nhà nghiên cứu Việt Nam cần làm rõ và Việt Nam cần vạch mặt lừa đảo của Trung Quốc giữa cộng đồng quốc tế.
Tiếp theo, Phó Oánh cho rằng: “Ở thập niên thứ 2 của thế kỷ 21, không thể tiếp tục sử dụng quan niệm và phương thức hơi một tí là chiến tranh và đối đầu của thế kỷ 19 để xem xét và xử lý vấn đề. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cách đây không lâu đã đưa ra quan điểm an ninh châu Á với nội dung chính là an ninh chung, an ninh tổng hợp, an ninh hợp tác và an ninh bền vững tại hội nghị cấp cao CICA lần thứ tư. Cần tích cực xây dựng ý thức hợp tác ứng phó thách thức, đi một con đường an ninh châu Á cùng xây dựng, cùng chia sẻ và cùng thắng”.
Nhưng, rõ ràng là, Trung Quốc vẫn đang dùng sức mạnh, dùng vũ lực, dùng phương thức xâm thực mới – “tằm ăn dâu” để bành trướng lãnh thổ, để cướp biển, để khủng bố (ít nhất là đâm chìm tàu cá Việt Nam)… đấy thôi. Cho nên, con giun xéo lắm cũng quằn, chẳng ai chấp nhận sự bất bình đẳng, sự ăn hiếp, bắt nạt trong thời đại văn minh này. Cái này cũng cần vạch mặt Trung Quốc giữa cộng đồng quốc tế và phải kiên quyết đáp trả.

Hình ảnh Hải quân Việt Nam chiến đấu chống bọn xâm lược Trung Quốc ở đá Gạc Ma năm 1988
Hình ảnh Hải quân Việt Nam chiến đấu chống bọn xâm lược Trung Quốc ở đá Gạc Ma năm 1988

Phải làm gì khi trung Quốc chây ỳ không chịu ra tòa?



Liên quan đến sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, trong buổi họp báo thường kỳ của Chính phủ ngày 29/5, Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Văn Nên cho biết, Việt Nam đã chuẩn bị đầy đủ hồ sơ pháp lý để kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế.
Tàu Trung Quốc (bên trái) ngang ngược, dùng vòi rồng phun nước  tàu Việt Nam
Tàu Trung Quốc (bên trái) ngang ngược, dùng vòi rồng phun nước tàu Việt Nam

Về những điểm cần lưu ý nếu Việt Nam khởi kiện Trung Quốc, Luật sư Nguyễn Phú Thắng – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội có bài phân tích:

Trung Quốc sợ ra tòa…
Song song với nỗ lực ngoại giao hòa bình, Việt Nam cần dự tính các biện pháp khác hiệu quả hơn để ngăn chặn các bước leo thang của Trung Quốc, trong đó cần xem xét đưa vụ việc ra Tòa án quốc tế. Có ít nhất hai thiết chế tài phán quốc tế có thẩm quyền mà Việt Nam có thể tiến hành vụ kiện.
Một là, Tòa án trọng tài quốc tế về Luật Biển. Tòa án Trọng tài quốc tế về Luật Biển được thành lập theo Phụ lục số 7 của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình giải thích và thực hiện Công ước. Điều 57 Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển xác định vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển trải rộng tới 200 hải lý kể từ đường cơ sở. Như vậy, giàn khoan 981 hiện diện trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc quyền tài phán của Việt Nam.
Hai là, Việt Nam cũng có thể kiện Trung Quốc ra Tòa án Công lý quốc tế (gọi tắt là ICJ), tuy nhiên việc này lại không phụ thuộc hoàn toàn vào ý chỉ chủ quan của quốc gia khởi kiện. Điểm bất lợi khi lựa chọn khởi kiện theo cách thức này là Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu Việt Nam khởi kiện và Trung Quốc cũng chấp nhận; hoặc Việt Nam và Trung Quốc thỏa thuận cùng yêu cầu tòa giải quyết tranh chấp. Việc đơn phương là khó khăn khi diễn biến vụ việc cho thấy rằng, Trung Quốc không có thiện chí giải quyết một cách sòng phẳng và công bằng.
Tuy nhiên, vấn đề thực thi bản án có hiệu lực của cơ quan tài phán quốc tế mới là điều chúng ta quan tâm. Điều 39 Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định: “Hội đồng Bảo an xác định sự tồn tại mọi sự đe doạ hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc hành vi xâm lược và đưa ra những kiến nghị hoặc quyết định các biện pháp nào nên áp dụng phù hợp với các Điều 41 và Điều 42 để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế”.
Do đó, nếu Trung Quốc không thi hành phán quyết, Việt Nam có thể nhờ tới sự can thiệp của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tuy nhiên, Điều 27 của Hiến chương lại trao quyền phủ quyết cho một trong năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an đó là Mỹ, Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc. Như vậy, nhiều khả năng Trung Quốc bảo lưu quyền không phê chuẩn Nghị quyết của Hội Đồng Bảo An nếu thấy bất lợi cho mình. Trường hợp này đã từng xảy ra đối với Hoa Kỳ vào năm 1984 và gần đây vào năm 2004, Isarel đã phản đối quyết liệt Nghị quyết của Hội đồng Bảo an yêu cầu thực hiện phán quyết dỡ bỏ hàng rào an ninh, đồng thời bồi thường cho người Palestine. Vậy là phán quyết của Tòa án công lý quốc tế đã không được thực thi và dần trôi vào quên lãng.

Quyền hạn của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
Nói như vậy không có nghĩa trật tự pháp luật quốc tế nằm trong tay các nước lớn, nước nhỏ phải chịu nép vế? Để tháo gỡ cho những bế tắc về việc thực thi phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế, hay có thể gọi là sự thất bại mang tính hệ thống của tổ chức này, Liên Hợp Quốc đã phê chuẩn Nghị quyết 337 (V) còn gọi là Nghị quyết Dena Acheson, theo đó có thể làm vô hiệu quyền phủ quyết của một nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, đồng thời cho phép Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc hành động khi Hội đồng Bảo an bất lực.
Luật sư Nguyễn Phú Thắng - Đoàn Luật sư TP. Hà Nội
Luật sư Nguyễn Phú Thắng - Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

Nghị quyết này được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1950 và nó quy định rằng: “Trong bất kỳ trường hợp nào mà Hội đồng Bảo an, do thiếu sự thống nhất giữa các thành viên thường trực của nó, không thực hiện đúng yêu cầu duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, Đại Hội đồng Liên hợp quốc sẽ xem xét vấn đề này ngay lập tức và có thể đưa ra bất cứ đề nghị cần thiết nào nhằm khôi phục hòa bình, an ninh quốc tế”.
Việc cân nhắc, xem xét khởi kiện hay đề nghị tư vấn từ các cơ quan Tài phán cần phải thận trọng trên nhiều yếu tố, có thể là: Kiện nội dung gì? Kiện quốc gia hay kiện Tổng Công ty dầu khí Hải Dương? Lựa chọn thời điểm khởi kiện? Lựa chọn cơ quan tài phán?… Ngoài ra, nên xem xét đề nghị Tòa án quốc tế giải thích nội dung Công ước Luật biển 1982 để đối chiếu với cách hiểu, cách viện dẫn và hành vi vi phạm của Trung Quốc trong những năm gần đây, bao gồm cả vụ giàn khoàn 981.
Bên cạnh đó rất cần phải học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đã tham gia tố tụng quốc tế giải quyết tranh chấp về chủ quyền biển, đảo như: Vụ án về Thềm lục địa Biển Bắc năm 1967-1969 giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Đan Mạch, Cộng hòa Liên bang Đức và Hà Lan; Phân định ranh giới biển trong khu vực Vịnh Maine năm 1981-1984 giữa Canada và Mỹ; Tranh chấp biên giới đất liền, đảo và biển năm 1986-1992 giữa El Salvador và Honduras; Tranh chấp về chủ quyền trên Pedra Braca (hay Pulan Bata Putech, Middle Rocks và South Ledge) năm 2003-2008 giữa Malaysia và Singapore; Tranh chấp phân định tại Biển Đen năm 2004-2009 giữa Rumani và Ucraina.
Các hoạt động tố tụng ở môi trường công pháp quốc tế rất cần vai trò của những Luật sư đẳng cấp quốc tế, thực sự giỏi và đầy kinh nghiệm ít nhất cũng phải ở tầm của Luật sư Paul Reichler (Hoa Kỳ) mà chính phủ Philippin đã mời trong vụ kiện Trung Quốc đang được trọng tài Luật biển quốc tế thụ lý, giải quyết.

Thời tiết xấu, tàu Trung Quốc liên tục gây hấn

Lợi dụng thời tiết xấu, tàu Trung Quốc liên tục gây hấn

TT - Sáng 31-5, trời Hoàng Sa có mưa lớn, gió mạnh, từng cơn sóng trắng xóa đánh mạnh vào thân tàu. Lợi dụng thời tiết xấu và tàu to hơn, các tàu Trung Quốc đã lao vào các tàu Việt Nam hòng đâm va, đe dọa suốt buổi sáng.
Các tàu chấp pháp Việt Nam tiến gần vào khu vực giàn khoan để thực thi nhiệm vụ thì bị các tàu Trung Quốc hoạt động trái phép tại vùng biển của chúng ta lao ra ngăn cản.

Tàu Việt Nam hỗ trợ nhau
Khoảng 9g, khi biên đội tàu kiểm ngư và cảnh sát biển của Việt Nam đang ở cách giàn khoan Hải Dương 981 khoảng 8 hải lý, Trung Quốc đã huy động nhiều tàu ra kè sát truy cản các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư Việt Nam.
Cụ thể, tàu hải cảnh 31 và tàu đầu kéo truy cản tàu kiểm ngư HP 951, tàu hải cảnh 44103 truy cản tàu cảnh sát biển 2015, tàu hải cảnh 45014 truy cản tàu cảnh sát biển 2016 và tàu hải cảnh 46001 truy cản tàu kiểm ngư 769.
Ngay sau khi bị tàu Trung Quốc truy cản, các tàu Việt Nam đã nhanh chóng liên lạc để hỗ trợ nhau. Các tàu cảnh sát biển với tốc độ và độ giãn nước lớn hơn đã tìm cách chạy cắt mặt các tàu Trung Quốc nhằm phá đội hình, tạo điều kiện cho các tàu kiểm ngư thoát ra khỏi vòng nguy hiểm.
Sau đó, tàu Trung Quốc đã tập trung tấn công hai tàu kiểm ngư HP 951 và 769. Tuy nhiên, nhờ sự khôn khéo của các thuyền trưởng nên hai tàu đã tránh được các đợt tấn công này của các tàu hải cảnh Trung Quốc.
Có mặt trên tàu cảnh sát biển 2015, phóng viên Tuổi Trẻ đã chứng kiến suốt buổi sáng tàu hải cảnh Trung Quốc liên tục đeo bám với tốc độ cao và quặt lái để đâm va vào tàu kiểm ngư HP 951.
Dừng tấn công khi thấy quay phim
Sau khi đâm va bất thành, các tàu hải cảnh và tàu đầu kéo của Trung Quốc đã dàn hàng ngang tiếp tục truy ép và phun vòi rồng vào tàu HP 951.
Phải sau 30 phút bị phun vòi rồng, tàu HP 951 mới thoát được sự bao vây của các tàu Trung Quốc. Dù không có kiểm ngư nào bị thương nhưng tàu HP 951 bị hư hỏng thêm một số thiết bị.
Đây là lần thứ hai Trung Quốc ngăn cản tàu Việt Nam bằng vòi rồng trong khoảng ba ngày gần đây.
Ngay sau đó, Trung Quốc đưa tàu hải cảnh 45014 theo sát khoảng 30m và sẵn sàng đâm va vào tàu cảnh sát biển 2016, nhưng thuyền trưởng Quản Ngọc Dương đã bình tĩnh chỉ huy tàu luồn lách, kéo giãn đội hình để các tàu kiểm ngư thoát ra khỏi vòng nguy hiểm.
Cùng thời điểm, tàu hải cảnh Trung Quốc cũng uy hiếp tàu cảnh sát biển 2015. Tuy nhiên, khi còn cách tàu 2015 khoảng 10m thì tàu hải cảnh của Trung Quốc phát hiện nhiều phóng viên trên tàu 2015 đang quay phim, chụp ảnh nên đã dừng việc tấn công.
Sau đó tàu hải cảnh của Trung Quốc đã giữ cự ly khoảng 15m cạnh tàu 2015 và chạy song song theo hơn 1 hải lý mới rời đi.
Trong chiều 31-5, các tàu Trung Quốc vẫn lợi dụng sóng lớn tiếp tục bám theo các tàu Việt Nam nhưng các tàu Việt Nam đều cơ động tránh được.
Theo đại úy Đặng Lê Sơn - thuyền trưởng tàu cảnh sát biển 2015, với thời tiết xấu như hiện nay, trong vài ngày tới việc tránh né các đợt tấn công đâm va của tàu Trung Quốc sẽ còn rất gian nan.
Bởi các tàu Trung Quốc chắc chắn sẽ tiếp tục lợi dụng tình hình sóng lớn và tàu to hơn để tiến hành đâm va gây sự cố lớn cho tàu Việt Nam.
Trong buổi sáng 31-5, tại khu vực Trung Quốc hạ đặt giàn khoan có 117 tàu các loại, trong đó có hai tàu quét mìn cách giàn khoan khoảng 18 hải lý.
Các tàu cá vỏ sắt Trung Quốc bố trí ở phía tây nam giàn khoan, cách giàn khoan 28 hải lý. Thông tin từ cảnh sát biển Việt Nam cho hay sáng 31-5, tại khu vực biển Hoàng Sa đã xuất hiện một tốp máy bay Trung Quốc ở phía nam tây nam đảo Tri Tôn.
HỮU KHÁ - MINH QUANG - MY LĂNG (từ Hoàng Sa, Việt Nam)

Chiếc mặt nạ "trỗi dậy hòa bình"

 Chiếc mặt nạ "trỗi dậy hòa bình" đã rơi


TTO - Tuyên bố “trong máu người Trung Quốc không có gen xâm lược” của ông Tập Cận Bình ngày 15-5 ngày càng trở nên lố bịch khi thế giới tiếp tục chứng kiến những gì giới lãnh đạo Trung Quốc làm đang đi ngược hoàn toàn những gì họ nói.
 
Tàu Trung Quốc phun vòi rồng tấn công tàu kiểm ngư Việt Nam ngày 28-5 - Ảnh: My Lăng

Không chỉ qua bài phát biểu với Hiệp hội Hữu nghị nhân dân với nước ngoài tại thủ đô Bắc Kinh hôm đó mà trên nhiều diễn đàn quốc tế, Trung Quốc đã nhiều lần trấn an cộng đồng thế giới rằng họ đang theo đuổi sự “trỗi dậy hòa bình”, hàm ý sự phát triển của nước này sẽ không đe dọa đến hòa bình và an ninh của nước khác.
Nhưng, nếu đúng vậy thì giới chức lãnh đạo của Mỹ, Úc, Nhật, EU…đã không phải thay nhau lên tiếng kêu gọi Trung Quốc kiềm chế, chấm dứt khiêu khích và xuống thang căng thẳng ở Biển Đông.
Giờ đây, điều Trung Quốc luôn mong muốn – giữ tranh chấp lãnh thổ trên biển với Việt Nam trong khuôn khổ quan hệ song phương – đã không thể tiếp tục như thế nữa.
Khi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981, Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế và chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam cũng như chà đạp lên hàng loạt thỏa thuận cấp cao giữa hai nước.
Khi triển khai hàng loạt tàu dân sự, quân sự quanh giàn khoan ấy – và đặc biệt khi dùng vũ lực với các tàu dân sự và ngư dân Việt Nam – họ đã vi phạm đến lợi ích của tất cả các nước còn lại: đó là quyền tự do hàng hải.
Chiếc mặt nạ đã rơi: trên Biển Đông, sự trỗi dậy của Trung Quốc chẳng hề mang tính hòa bình. Ngược lại, nó đang đe dọa an ninh khu vực, an toàn và tự do hàng hải trong khi phần lớn dòng thương mại quốc tế đi qua vùng biển này.
 Không chỉ những nước ở gần Trung Quốc mà tất cả những ai có đường hàng hải qua đây, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và xa hơn nữa là Canada, Mỹ,…đều bị tác động trực tiếp.
Nhìn lại, trước khi giàn khoan Hải Dương 981 xuất hiện trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, quan hệ song phương Việt Nam - Trung Quốc vẫn khá tốt đẹp bất chấp hàng loạt những hành động đơn phương, lấn chiếm Biển Đông trong nhiều năm của Trung Quốc.
“Ít nhất thì mối quan hệ đó cũng ở mức độ còn kiểm soát được” – TS. Hoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao (Học viện Ngoại giao Việt Nam) đánh giá.
Việc đưa giàn khoan vào Biển Đông cũng như hành vi kèm theo của Trung Quốc đã thay đổi toàn bộ bức tranh, thay đổi hoàn toàn nhận thức của người dân Việt Nam về người láng giềng 16 chữ và 4 tốt ấy, vẫn theo nhận xét của TS. Tuấn.
Điều nguy hiểm hơn là Trung Quốc chẳng nề hà gì dư luận quốc tế và phản ứng từ lãnh đạo các cường quốc khác. Họ thậm chí phớt lờ việc thảo luận, trao đổi  – cách hành xử tối thiểu trong quan hệ quốc tế.
Trước khi xảy ra sự việc này, giữa Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập nhiều kênh liên lạc và trao đổi thông tin ở các cấp khác nhau.
Trên thực tế, trong một tháng qua, phía Việt Nam đã cố gắng khai thác mọi kênh giao tiếp để đối thoại với Trung Quốc nhằm xử lý căng thẳng, nhưng tất cả đề xuất và biện pháp đều bị phía Trung Quốc khước từ.
Thậm chí, cách đây hơn hai năm, hai nước còn thiết lập một đường dây nóng giữa hai bộ ngoại giao với mục đích xử lý kịp thời các vấn đề nảy sinh trên biển. Từ khi căng thẳng bùng phát trên Biển Đông đến nay, đường dây nóng này chưa một lần đổ chuông. “Một số người đã nhận xét rằng, đường dây nóng giờ đã thành đường dây chết” – ông Tuấn nói.
“Trung Quốc đang xói mòn tính tin cậy của mình cũng như tổn hại đến danh tiếng họ trên thế giới.” - TS. Sally Wood, một học giả Úc, đã nhận định như vậy. Có lẽ,  đã đến lúc cộng đồng thế giới phải đặt Trung Quốc vào đúng vị trí để nhìn nhận sự trỗi dậy của nước này. Đó là một kẻ bắt nạt to xác và dối trá. Không hơn. Không kém.
H.GIANG - VÂN ĐỖ

Mang chứng cứ chủ quyền "đi Tây"

Mang chứng cứ chủ quyền Hoàng Sa "đi Tây"

Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Quang Ngọc kể chuyện: có những chứng cứ, bằng chứng được chính người xem triển lãm cung cấp thêm cho Ban Tổ chức triển lãm, và những tài liệu đó rất có giá trị.

Giấy chứng sinh của người dân trên đảo Hoàng Sa
Cái được của những cuộc triển lãm do Bộ Thông tin Truyền thông tổ chức, theo GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, là vô giá: không chỉ người dân trong nước mà bạn bè quốc tế cũng hiểu, từ đó ủng hộ chân lý, Hoàng Sa - Trường Sa là máu thịt, là chủ quyền bất khả xâm phạm của Việt Nam.
Ông Ngọc cũng không giấu niềm tự hào, hạnh phúc, đó là chính những người dân đi xem triển lãm, đã cung cấp thêm cho BTC những bằng chứng, tư liệu mà họ đang gìn giữ, để "dầy dặn thêm" bộ hồ sơ pháp lý của chúng ta.
Ông Ngọc kể: Sau triển lãm tại T.P Hồ Chí Minh, một người dân đã cung cấp cho chúng tôi Giấy chứng sinh của một người sinh ra ở Hoàng Sa vào năm 1939, có giấy chứng sinh, có con dấu của chính quyền trên đảo Hoàng Sa khi đó xác nhận.
Giấy chứng sinh ấy, thực ra chỉ là một thủ tục tư pháp rất nhỏ và đơn giản, nhưng nó cho thấy được đời sống dân sự ở thời điểm đó là rất cao, rất đáng được đánh giá; tổ chức dân sự ở Hoàng Sa thời điểm đó cũng đã rất chặt chẽ, có tổ chức... Qua những tư liệu như thế chúng tôi càng thấy rõ hơn được chủ quyền của ta đã được thực thi một cách đầy đủ và trọn vẹn ở Hoàng Sa.
Giấy chứng sinh đó thuộc về bà Mai Kim Quy - công dân trên đảo Hoàng Sa, sinh năm 1939. Mặc dù chỉ còn là một hiện vật cũ kỹ do thời gian làm cho ố màu, tuy nhiên, những thông tin chính về một công dân Việt Nam được chính quyền sở tại xác nhận về sự ra đời của công dân này vẫn còn nguyên vẹn, đầy đủ.
Giàn khoan, HD-981, Hải Dương-981, biển Đông, ASEAN, Trung Quốc, COC, DOC, yêu nước, tuần hành, vòi rồng, bành trướng, chiến tranh, Trường Sa, Hoàng Sa, chủ quyền, độc lập dân tộc, kiểm ngư viên, biển đảo, hàng xóm, hải quân, cảnh sát biển Việt Nam.
Giấy chứng sinh của một công dân trên Hoàng Sa do người dân cung cấp sau khi Bộ Tài nguyên Môi trường tổ chức triển lãm tại TP. Hồ Chí Minh. Ảnh: Kiên Trung.

Thông tin trên giấy chứng sinh: Họ và tên em bé: Mai Kim Quy; giới tính: Nữ; con ông Mai Xuân Tập, (là cha, nhân viên Khí tượng) và bà Nguyễn Thị Thắng (mẹ, làm nghề nội trợ).
Tên người làm chứng thứ nhất: Nguyễn Tăng Chuẩn, bác sỹ Đông Dương; người làm chứng thứ hai: Đỗ Đức Mai, GĐ Đài Phát thanh.
Người đại diện ký tên dưới giấy chứng sinh này là Chauvet (Đại diện phái đoàn ở đảo Hoàng Sa, thuộc quần đảo Hoàng Sa, thuộc nước An Nam).
Sau khi tiếp nhận hiện vật này, sau triển lãm tại TP Hồ Chí Minh, giấy chứng sinh của bà Mai Kim Quy - công dân Việt Nam được sinh ra trên đảo Hoàng Sa đã có mặt trong các buổi triển lãm tại các tỉnh thành trên cả nước.

Đi Tây để mang thêm chứng cứ pháp lý chủ quyền về Tổ quốc
Một tài liệu quý giá khác mà ông Ngọc vừa được tiếp cận, qua các đồng nghiệp, học trò của ông từ Pháp gửi về. Đó là Bộ Atlas thế giới, Bruxelles- 1827 do nhà địa lý học kiệt xuất Philippe Vadermaelen (1795-1869), thành viên Hội địa lý Paris, chủ biên, trong đó có bản đồ thể hiện quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Bằng nghiệp vụ và kinh nghiệm, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc nhận định: đây là một tài liệu quan trọng, có cơ sở pháp lý rất cao khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, thời điểm đó (tháng 3/2014), GS Ngọc đề nghị tôi, "hãy chưa vội thông tin về điều đó".
Sự cẩn trọng của GS Ngọc, dường như là để tất cả mọi việc được trọn vẹn và hoàn thiện nhất, để thông tin trên được đăng tải một cách long trọng nhất, xứng đáng với giá trị của tài liệu đó.
Và, ngày 13/5/2014, Bộ Thông tin Truyền thông đã tổ chức buổi lễ long trọng tiếp nhận tư liệu quý giá này: Bộ Atlas thế giới, Bruxelles- 1827 của nhà địa lý học kiệt xuất Philippe Vadermaelen (1795-1869).
Giàn khoan, HD-981, Hải Dương-981, biển Đông, ASEAN, Trung Quốc, COC, DOC, yêu nước, tuần hành, vòi rồng, bành trướng, chiến tranh, Trường Sa, Hoàng Sa, chủ quyền, độc lập dân tộc, kiểm ngư viên, biển đảo, hàng xóm, hải quân, cảnh sát biển Việt Nam.
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, Chủ tịch Hội đồng thầm định chứng cứ lịch sử, pháp lý khẳng định chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa. Ảnh: Kiên Trung

Bộ Atlas Thế giới gồm 6 tập với 7 bản đồ chung của 5 châu lục, 381 bản đồ chi tiết, 40 trang bảng thống kê và nhiều thông tin về địa lý tự nhiên, chính trị, khoáng sản. Bộ Atlas được hoàn chỉnh trên cơ sở những tấm bản đồ tốt nhất thế giới lúc đó, cùng những thông tin từ quan sát thiên văn hay những chuyến du hành ở nhiều nơi trên trái đất và được vẽ thống nhất theo tỷ lệ 1/1641836, kích thước 53,5 x 37 cm, có thể được ghép lại thành quả địa cầu đường kính 7,55m.
Đây thực sự là một cột mốc lớn đánh dấu giai đoạn phát triển trội vượt của công nghệ vẽ và in bàn đồ hiện đại ở đầu thế kỷ XIX. Đã gần 200 năm nay, bộ Atlas đã trở nên hết sức nổi tiếng, được khai thác sử dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Đích thân GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc trực tiếp đi châu Âu thẩm định và đã có trao đổi với các học giả quốc tế về tính chân thực của bộ Atlas thế giới này.
Tại buổi công bố, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc đã trình bày chi tiết về nội dung tập Atlas và các bản đồ.
Bản đồ các nước châu Á gồm 111 tấm, được xếp chủ yếu trong tập hai của bộ Atlas. Việt Nam khi đó được giới thiệu thông qua các tấm bản đồ số 97, 105, 106, 110. Partie de Cochinchine là tờ số 106, vẽ đường bờ biển miền Trung từ vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 16. Phía ngoài khơi, PARACELS (Hoàng Sa) được vẽ khá chi tiết và chuẩn xác trong khoảng vĩ độ 16 đến 17 và kinh độ từ 109 đến 111 (theo kinh tuyến Paris).
Quần đảo PARACELS trong bản đồ có các đảo Pattles, Duncan ở phía Tây; Tree và Lincoln, Rocher au desus de l'eau (Bãi đá ngầm) ở phía Đông và Triton ở phía Tây Nam, ngay dưới vĩ độ 16; Investigateur ở sâu phía nam khoảng vĩ độ 14,5. Bên cạnh khu vực được xác định là PARACELS, bản đồ có một bản giới thiệu tóm tắt về Đế chế An nam (Empire d'An-nam).
Tiếp liền Parite de la Cochinchine ở phía trên là tấm số 98 mang tên Partie de la Chine trong khoảng vĩ độ 18 - 21 và kinh độ 105 - 114 (kinh tuyến Paris) vẽ khu vực Quảng Đông và đảo Hải Nam, cho biết biên giới cực Nam của Trung Quốc chưa chạm đến vĩ độ 18. Tất cả các bản đồ của Trung Quốc từ thập kỷ đầu thế kỷ XX trở về trước cũng hoàn toàn thống nhất với bản đồ phương Tây không hề vẽ lãnh thổ của Trung Quốc vượt xuống dưới vĩ độ 18. Điều này không chỉ phản ánh tính khách quan, chuẩn xác của bộ Atlas, mà còn góp phần làm tăng thêm giá trị minh chứng chủ quyền của Việt Nam ở Paracels đã được thể hiện trong Partie de la Cochinchine.
Bắt đầu từ thế kỷ XVI đã có một số bản đồ phương Tây vẽ về khu vực Đông Ấn có đánh dấu địa danh Paracels (Hoàng Sa) ở giữa Biển Đông và khu vực bờ biển phía Tây Paracels (bờ biển miền Trung Việt Nam) được đánh dấu là Costa de Paracels (bờ biển Hoàng Sa). Bước sang thế kỷ XVII và nhất là thế kỷ XVIII, nhiều bản đồ đã thể hiện rõ ràng vị trí, đặc điểm địa lý và mối quan hệ chủ quyền Paracels với khu vực Đàng Trong, tuy vậy hầu hết các bản đồ này vẫn xếp Paracels vào chung khu vực Đông Ấn.
Phải đến đầu thế kỷ XIX, khi Vương triều Nguyễn được thành lập với sự khẳng định chủ quyền của Việt Nam một cách đầy đủ, thật sự theo đúng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ được phương Tây thừa nhận và ca ngợi, bản đồ Phương Tây mới chính thức xác nhận quần đảo Paracels nằm trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam và thuộc về nước Việt Nam.
Partie de la Cochinchine là bản đồ đầu tiên đã được vẽ một cách tuyệt đối chính xác vị trí (kinh độ, vĩ độ), đặc điểm địa lý, tên gọi phương Tây của các đảo lớn nhất và quan trọng nhất trong quần đảo Hoàng Sa. Bản đồ đặt trong khu vực Cochinchinelà một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của Đế chế An nam, minh chứng một cách rõ ràng và chuẩn xác chủ quyền của Việt Nam ở Paracels đã được quốc tế ghi nhận.
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc cho biết: bộ Altlas thế giới của Philippe Vandermaelen nói chung và Partie de la Cochinchine nói riêng xét trên mọi khía cạnh đều có thể được coi là một tài liệu vô giá không chỉ giúp nâng cao giá trị khoa học chuẩn mực của công cuộc tuyên truyền giáo dục về chủ quyền biển đảo, mà còn là một bằng chứng hùng hồn, đích thực, hiệu quả và có giá trị pháp lý quốc tế cao cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.
"Nhờ có đồng nghiệp ở Paris mà chúng tôi có được những thông tin đầu tiên về bộ Atlas, được Bộ TT&TT (mà trực tiếp là Cục Thông tin đối ngoại) tạo điều kiện cho chúng tôi mở rộng khai thác nhiều nguồn thông tin liên quan, chuẩn bị cho chuyến đi khảo sát ở châu Âu. Ông Ngô Chí Dũng, Tổng giám đốc công ty Dược phẩm ECO đã tài trợ kinh phí cho chúng tôi tiến hành khảo sát 5 bộ Atlas ở các thư viện quốc gia Pháp, Bỉ, thư viện Địa lý Hoàng gia Bỉ, thư viện trường Đại học Y Paris; thảo luận và thống nhất đánh giá với các chuyên gia địa lý học, bản đồ học, Sử học, Luật học, Thư viện học ở Paris, Bruxelles để có cơ sở xác định bộ Atlas thế giới ở  Gent là bộ gốc xuất bản tại Bruxells năm 1827. Sau đó khi có được những thông tin quan trọng này, ông quyết định mua trọn bộ 6 tập Atlas Thế giới để làm dày dặn thêm cơ sở lịch sử và pháp lý về chủ quyền của Việt Nam ở Paracels" - ông Ngọc thông tin tại buổi hội thảo.
"Trong Bộ Atlas này các đường biên giới, các phạm vi lãnh thổ, lãnh hải được phân định rõ ràng, mạch lạc và rất dễ nhận biết. Nếu thấy có gì cần phải xác minh thì có thể nhanh chóng kiểm tra trên mạng hay trực tiếp nghiên cứu các bản gốc được lưu trữ trong nhiều thư viện, kho sách ở châu Âu, châu Mỹ và bây giờ là ở Hà Nội, Việt Nam" - GS.TS Nguyễn Quang Ngọc khẳng định.
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son cho biết bộ Atlas được Bộ TT&TT tiếp nhận là bộ tài liệu quý góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đây cũng là thực hiện chủ trương của Chính phủ, Bộ TT&TT sẽ cùng các bộ ngành, người dân tích cực sưu tầm các tài liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Di Linh

Kế sách của Philippines

Kế sách khôn ngoan của Philippines với TQ

Philippines không những bảo vệ các yêu sách của mình theo luật pháp quốc tế; mà còn áp dụng nó để thách thức các yêu sách của TQ trên các diễn đàn khác nhau. "Phát súng" đầu tiên được khai hỏa vào 5/4/2011.

Trung Quốc phản đòn

Tuy nhiên, Philippines chỉ đạt được thành công hạn chế trong việc thực hiện hai yếu tố đầu của chiến lược chủ động, cụ thể là thay đổi hiện trạng và quốc tế hóa tranh chấp. Một mặt, Philippines đã thành công trong việc chọc giận TQ, đồng thời tạo ra dư luận rằng Bắc Kinh là kẻ bắt nạt, còn Manila là nạn nhân yếu nhưng không sợ. Một phần do phản ứng của TQ đối với Philippines, công luận trong khu vực đã chỉ trích TQ một cách gay gắt. Cộng đồng quốc tế ngày càng can dự vào tranh chấp khi Philippines và các bên tranh chấp khác liên kết cùng nhau ứng phó với TQ.
Chiến lược của Philippines là buộc TQ lựa chọn giữa đánh mất biển Đông và đánh mất khu vực. Cho đến nay TQ tránh phải đối mặt với sự lựa chọn khó khăn này bằng cách ứng phó theo kiểu ăn miếng trả miếng đối với những hành động chọc tức của Philippines, trong khi đó ngăn ngừa sự leo thang. Chiến lược hăm dọa của TQ làm mất bạn bè, nhưng nó không đến mức khiến cho ngưng trệ quan hệ thương mại khu vực. Như vậy, trong khi sự căng thẳng tiếp tục tồn tại, chiến lược của Philippines đã phải trả cái giá đáng kể. TQ đã đạt được một số thành công ngoạn mục, điển hình là vụ bãi cạn Scarborough. Mặc dù Manila định đẩy TQ ra khỏi đó, nhưng chịu thất bại, và TQ càng củng cố lực lượng kiểm soát vùng biển từ đó đến nay.
Phần nào đó Philippines lúng túng trong chiến dịch của mình vì chọn nhầm chiến trường. Trên cả hai phương diện là thay đổi hiện trạng ở biển Đông và quốc tế hóa tranh chấp, TQ đều có lợi thế so sánh.
Tương tự như vậy, TQ cũng vượt trội Philippines trên trường quốc tế nhờ có các mối quan hệ thương mại rộng khắp. Các nước thường nghe theo TQ khi Bắc Kinh dọa đừng có can dự vào tranh chấp trên biển Đông nếu không muốn trả giá đắt liên quan đến đầu tư vào TQ.
Như vậy, để chiến lược của mình thành công, Philippines cần thách đấu ở vũ đài mà họ có lợi thế so sánh so với TQ, nơi mà TQ khó phát huy thế mạnh của mình. Vì thế, Manila đã ngày càng ưu tiên sử dụng nhiều hơn yếu tố thứ ba trong chiến lược của mình - luật pháp quốc tế.
Giàn khoan, HD-981, Hải Dương-981, biển Đông, ASEAN, Trung Quốc, COC, DOC, yêu nước, tuần hành, vòi rồng, bành trướng, chiến tranh, Trường Sa, Hoàng Sa, chủ quyền, độc lập dân tộc
Lính hải quân của Philippines kéo cờ tại biển Đông. Ảnh: AP

Sử dụng luật pháp quốc tế
Tất cả các quốc gia thường được coi là bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy, luật pháp quốc tế có thể được sử dụng để giảm thiểu các lợi thế của TQ xuống mức ngang bằng với Philippines. Theo đó, từ năm 2011 Manila ngày càng dựa vào luật pháp quốc tế nhiều hơn để đòi hỏi các yêu sách chủ quyền. Tất nhiên các bên tranh chấp khác ở biển Đông cũng biện luận cho các yêu sách của mình dựa trên luật pháp quốc tế. Nhưng Philippines không những bảo vệ các yêu sách của mình theo luật pháp quốc tế; mà còn áp dụng nó để thách thức các yêu sách của TQ trên các diễn đàn khác nhau.
Phát súng đầu tiên được khai hỏa vào 5/4/2011, khi Philippines đệ trình thư ngoại giao (note verbal) lên LHQ phản đối đường 9 đoạn của TQ là "không hề có cơ sở theo luật pháp quốc tế". Văn bản này được đưa ra đúng thời điểm, phản ứng lại hai văn bản của TQ đệ trình trước đó vào 7/5/2009. Sau khi TQ nộp văn bản này vài tháng, đã có một số nước đã đệ trình văn bản phản đối đến LHQ. Nhưng Philippines đã giữ im lặng hai năm mới quyết định khơi lại vấn đề thông qua việc đệ trình văn bản của mình. Manila không chỉ quan tâm đến hành động ngoại giao, mà đợi thời điểm để dồn Bắc Kinh vào thế phòng ngự.
Từ đó đến nay, Philippines tăng cường thế tấn công về luật pháp quốc tế. Đáng kể nhất là việc Manila quyết định đưa vụ việc ra cơ quan tài phán quốc tế sau khi chịu thất bại ở bãi cạn Scarborough. Ngày 22/1/2013 Philippines đã có bước đi mạnh mẽ bắt đầu quy trình khởi kiện trọng tài theo quy định của UNCLOS. Philippines chủ yếu đưa ra ba đòi hỏi: thứ nhất, đường chín đoạn của TQ trái với quy định của UNCLOS; thứ hai, nhiều thực thể biển mà TQ đòi có chủ quyền không được hưởng chế độ của vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý như TQ khẳng định; thứ ba, TQ nhiều lần vi phạm các quyền của Philippines theo quy định của UNCLOS.
Không có gì ngạc nhiên khi TQ phủ nhận các đòi hỏi của Philippines và từ chối tham gia vụ kiện. Nhưng theo Điều 9, Phụ lục VII của UNCLOS, "việc một bên vắng mặt hay một bên không đệ trình phản tố không cản trở trình tự tố tụng". Trong khi vẫn còn chưa rõ việc TQ vắng mặt có hệ quả gì đối với thẩm quyền tài phán của tòa, cho đến nay quy trình tố tụng trọng tài quốc tế dường như đang theo con đường của Philippines. Mặc dù TQ không tham gia, 5 thành viên của Hội đồng trọng tài vẫn được lựa chọn vào tháng 4/2013. Hội đồng đã đưa ra lệnh tố tụng đầu tiên vào 27/8/2013 thiết lập hạn chót để Philippines nộp đầy đủ hồ sơ, và Philippines đã làm điều này vào ngày 30/3/2014.
Trên phương diện nào đó, việc Philippines chú ý sử dụng luật pháp quốc tế có vẻ hơi lạ lùng, vì các yêu sách pháp lý của họ không vững vàng. Nhưng Philippines đã biết cách che giấu điểm yếu của mình bằng cách chủ động tấn công. Họ tự đặt ra điều kiện cho vụ kiện của mình, tập trung nhiều hơn vào các điểm yếu trong các yêu sách tham lam của TQ mà ít gây chú ý đến quan điểm pháp lý mỏng manh của mình.
Trong đó, yêu sách của Philippines về lãnh thổ yếu hơn so với của TQ. Nhưng vụ kiện của Philippines không tập trung vào vấn đề ai làm chủ quần đảo (tòa trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vấn đề này), mà đặt ra những vấn đề luật biển như: những thực thể đảo nào ở biển Đông được quyền có EEZ theo quy định của UNCLOS. Hơn nữa, do TQ từ chối tham gia vụ kiện nên đã bỏ lỡ cơ hội nhấn mạnh quan điểm của mình và hướng sự chú ý tới những điểm yếu của Manila.
Mặc dù đã từ chối tham gia vụ kiện, TQ vẫn cố gắng hết sức ngăn cản quy trình tố tụng. Một năm rưỡi sau khi Philippines nộp hồ sơ, Bắc Kinh cố gạ gẫm Manila chấm dứt quy trình tố tụng trọng tài. Philippines đã từ chối những đề nghị này, thậm chí có những lúc làm điều đó một cách công khai, khiến TQ rất lúng túng. TQ cũng cố gắng thuyết phục các nước ASEAN khác chống lại Philippines, nhưng đều nhận được lời từ chối lịch sự.
Ở một mức độ nào đó, phản ứng của TQ có vẻ như quá mức. Nếu như Hội đồng trọng tài ra phán quyết bất lợi cho Bắc Kinh, vậy thì sao? Nhưng TQ lại chú trọng việc được coi là một chủ thể quốc tế biết tuân thủ luật chơi, vì điều đó có những lợi ích vô hình. Với việc lớn mạnh không ngừng, TQ cần phải tránh thể hiện mình như một quốc gia theo chủ nghĩa phục hận, làm mất ổn định trật tự thế giới hiện hành. Như hiện tại các nước láng giềng đã thấy khó khăn trong giao thương với nước lớn này. TQ không thể tạo thêm lý do khiến họ lo ngại thêm nữa.
Vì vậy, vụ kiện của Philippines có thể coi như một phong vũ biểu đo đường đi nước bước của TQ, thậm chí nhận dạng nước này. Khi chịu áp lực, TQ có tôn trọng luật pháp quốc tế hay không? Hay họ sẽ theo logic "kẻ mạnh làm những gì có thể làm, người yếu phải chịu những gì phải chịu". Philippines đã tìm ra điểm yếu của TQ, và sẽ còn khai thác nó ít nhất một thời gian nữa. Và nếu nước cờ kiện lên tòa trọng tài thành công, Philippines sẽ còn tiếp tục chú trọng sử dụng luật pháp quốc tế trong chiến lược chủ động của mình.

Kết luận

Trong khi TQ từng chiếm thế thượng phong ở biển Đông nhiều năm nhờ chiến lược khôn khéo và sức mạnh vật chất của mình, nước này cũng ngày càng đánh mất sự kiểm soát của mình do các bên tranh chấp yếu hơn như Philippines đã áp dụng chiến lược chủ động hơn, thậm chí có phần đối đầu. Cho đến nay, TQ đã "chiến đấu" nhằm giải quyết những hành động chọc giận một cách chịu đựng: mặc dù TQ đã dùng vũ khí chính trị và kinh tế để đẩy lùi đối phương, nhưng lại làm tổn hại uy tín của mình trong khu vực.
Tuy nhiên, các nước nhỏ cũng chưa thể tuyên bố chiến thắng. Trên nhiều phương diện, chiến lược của Philippines thiếu hiệu quả trong việc buộc TQ nhượng bộ. Sau đó, Philippines đã áp dụng cách tiếp cận mới có tiềm năng hơn khi quay sang sử dụng luật pháp quốc tế. Trên thực tế, TQ thể hiện một thái độ sẵn sàng thỏa hiệp chưa từng thấy đối với vụ kiện trọng tài của Phi. Philippines vẫn đang từ chối thương lượng, có lẽ muốn nhận được nhượng bộ tốt hơn trong tương lai.
Nhưng vụ kiện càng tiến triển, TQ sẽ ngày càng liều lĩnh ngăn cản bằng bất kỳ cách thức cần thiết nào. Manila càng kéo dài vụ kiện, Bắc Kinh càng cố vượt qua sự bướng bỉnh của đối phương bằng sức mạnh hơn là bằng cơ chế giải quyết tranh chấp. TQ cũng có thể quyết định chơi theo vụ kiện, nhất là vì tòa trọng tài có thể dễ dàng tuyên bố không có thẩm quyền phán quyết về vụ việc. Như vậy, tạm thời Philippines đang giành lợi thế chiến thuật, nhưng phải chờ xem họ có giữ được nó hay không.
Dù cho kết quả vụ kiện thế nào chăng nữa, quá trình này dự báo điềm xấu cho sự ổn định của khu vực, như các sự kiện trong vài tuần qua đã chứng minh. Điều tồi tệ ở đây là chiến lược của cả hai bên phụ thuộc vào bên kia có muốn xung đột công khai hay không. TQ cho rằng Philippines không muốn khơi mào một cuộc đụng độ hải quân nắm chắc phần thua; trong khi đó Manila hy vọng Bắc Kinh sẽ không kích động cả khu vực với việc khoe khoang sức mạnh quân sự.
Với nghĩa nào đó có lẽ hai bên đều đúng. Nhưng hai nước đều không kiểm soát được hết, liệu các sự việc sẽ phát triển đến đâu, nhất là cả TQ và Philippines thường cho phép các lực lượng trong nước vận động khá thoải mái. Trong khi chiến thuật này thể hiện sự cam kết và gây dựng lòng tin trong nước, nó cũng tiềm ẩn nguy cơ kích nổ thùng thuốc súng nằm ở trung tâm cuộc tranh chấp, với những tia lửa của chủ nghĩa dân tộc và sự tính toán sai lầm. Như lịch sử đã chứng minh, chỉ cần một tia lửa thôi cũng đủ làm nổ tung thùng thuốc súng.
Nguyễn Đức Lam (dịch, theo National Interest)