HD-981: Việt Nam không hề thúc thủ trước Trung Quốc
Trọng Nghĩa
Giàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)
Việc Trung Quốc rút giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng biển Việt Nam ngày
15/07/2014 đã dẫn đến một cuộc tranh luận giữa các học giả về việc ai
thắng ai thua trong cuộc đọ sức kéo dài hơn hai tháng. Theo chuyên gia
Carl Thayer, rõ ràng là Việt Nam đã không khuất phục trước sức ép của
Bắc Kinh. Trong bài viết trên báo mạng The Diplomat ngày 04/08/2014,
mang tựa đề « Việt Nam, Trung Quốc và cuộc khủng hoảng giàn khoan : Ai
chùn bước ? - Vietnam, China and the Oil Rig Crisis: Who Blinked ? »,
Giáo sư Carl Thayer đã kết luận như trên sau khi phân tích ý kiến trái
ngược nhau của hai chuyên gia Mỹ Zachary Abuza và Alexander Vuving.
Thông báo bất ngờ của Trung Quốc vào ngày 15 rằng họ cho rút giàn
khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam đã dẫn đến một cuộc tranh luận giữa các
học giả về lý do tại sao.
Zachary Abuza, một giáo sư tại Đại học Simmons ở Boston, cho rằng
Việt Nam đã oằn mình dưới áp lực của Trung Quốc, trong khi Alexander
Vuving, một giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình
Dương ở Hawaii, cho rằng Việt Nam đã đứng vững trên lập trường của mình
còn Trung Quốc thì đã chùng bước.
Phân tích của Abuza xuất hiện trong phần "Phát biểu tự do" của báo
mạng Asia Times ngày 29/07. Phân tích của ông rất độc đáo, đầy tính chất
khiêu khích và suy diễn.
Zachary Abuza: Đa số trong Bộ Chính trị chiều theo áp lực của Trung Quốc
Abuza cho rằng việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan "biểu thị một nguy
cơ gây chia rẽ nghiêm trọng nhất trong những năm tới đây trong giới lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Hà Nội." Không chỉ nội bộ Bộ Chính trị bị chia rẽ
sâu sắc, mà đa số lại chọn giải pháp xuống thang trong cuộc khủng hoảng
bằng cách chiều theo sức ép của Trung Quốc. Abuza viết : "Quyết định
lùi bước của Hà Nội có hệ quả tiềm tàng rất hệ nghiêm trọng. Việt Nam đã
xoa dịu được Trung Quốc, nhưng điều đó rất có thể sẽ dẫn đến nhiều hành
vi gây hấn khác." Abuza kết luận : "Một chính sách nhân nhượng sẽ gây
nguy hiểm cho chính chế độ... [và] tính hợp pháp của chế độ."
Để hỗ trợ cho lập luận của mình, Abuza cung cấp một số thông tin rất
chi tiết về quá trình ra quyết định của lãnh đạo Việt Nam thường rất bí
hiểm. Lập luận của Abuza có thể tóm lược trong bốn điểm :
Đầu tiên, để đối phó với thái độ quyết đoán của Trung Quốc trong việc
hạ đặt giàn khoan dầu HYSY 981 trong vùng biển Việt Nam vào đầu tháng
Năm, Abuza quả quyết rằng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam đã họp lại vào tháng Sáu và "nhất trí quyết định lên án hành động
gây hấn và xâm lược của Trung Quốc."
Thứ hai, chuyến thăm Hà Nội của Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương
Khiết Trì vào ngày 18 đã cho trở thành thiết yếu. Trước chuyến thăm,
các nhà lãnh đạo Việt Nam hy vọng rằng ông Dương Khiết Trì sẽ có những
nhượng bộ ngoại giao. Theo Abuza, điều ngược lại đã xảy ra. Ông Dương
Khiết Trì "không một chút nhượng bộ..., quở mắng chủ nhà là đã 'thổi
phồng' tình hình" và cảnh cáo 'một cách thẳng thừng rằng Trung Quốc sẽ
'dùng mọi biện pháp cần thiết' để bảo vệ giàn khoan."
Thứ ba, kết quả của chuyến thăm của Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc
là đa số trong số 16 ủy viên Bộ Chính trị đã đảo ngược nghị quyết tháng
Sáu của Ban Chấp hành Trung ương. Theo Abuza, một thiểu số gồm 6 ủy viên
ủng hộ "một chiến lược nhiều mặt" để chống lại Trung Quốc, trong khi đa
số 10 ủy viên ủng hộ việc xuống thang khủng hoảng để thích nghi với
Trung Quốc.
Khía cạnh suy diễn mạnh nhất trong phân tích của Abuza là cách ông
phân loại từng ủy viên Bộ Chính trị vào trong hai nhóm. Theo Abuza, nhóm
thiểu số bao gồm sáu thành viên: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Bí thư Đảng ủy Thành phố Hồ Chí Minh và "ủng
hộ cải cách" Lê Thanh Hải, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, và Phó Chủ
tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Thông [sic] Thị Phong.
Đa số 10 ủy viên bao gồm: Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên
Ban Bí thư Tô Huy Rứa và Lê Hồng Anh, Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Ngô
Văn Dụ, Trưởng ban Tuyên giáo Đinh Thế Huynh, Bí thư Thành phố Hà Nội
Phạm Quang Nghị, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh, "có lẽ" Bộ trưởng Công an
Trần Đại Quang, và "rất có thể" Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Thứ tư, hệ quả của sự đảo ngược chính sách này là Bộ Chính trị đình
hoãn một quyết định trước đó là xúc tiến hành động pháp lý chống lại
Trung Quốc, bớt nhấn mạnh trên Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông mang tính
chất ràng buộc, và hủy bỏ "chuyến đi Washington được dự kiến của Ngoại
trưởng Phạm Bình Minh từng được quảng bá rộng rãi".
Bộ Chính trị đã quyết định thăm dò Washington về "mức độ cam kết đóng
một vai trò trong một cuộc xung đột tiềm tàng với Trung Quốc tại Biển
Đông" bằng cách phái lãnh đạo Đảng của thành phố Hà Nội đồng thời là ủy
viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị đi thay vào chỗ Ngoại trưởng Phạm Bình
Minh.
Abuza kết luận rằng đa số Bộ Chính trị "không sẵn sàng chống lại
Trung Quốc" và "có một hy vọng ở một số người rằng nếu Việt Nam nhượng
bộ trên vấn đề quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc sẽ trả lễ trên vấn đề quần
đảo Trường Sa."
Alexander Vuving : Động thái bắt nạt của Trung Quốc đã thay đổi cách tiếp cận Bắc Kinh của Hà Nội
Alexander Vuving cung cấp một cái nhìn ngược lại trong một bài bình
luận với tựa đề "Có phải Trung Quốc chùng bước tại Biển Hoa Nam (Biển
Đông)", được đăng trên báo mạng The National Interest. Vuving viết rằng
cuộc khủng hoảng giàn khoan là "một trận đấu của ý chí... Bên nào có
quyết tâm hơn sẽ có thể giành chiến thắng ngay cả khi nó là bên yếu hơn.
Với chủ quyền của mình bị đe dọa, cả hai quốc gia đã thử quyết tâm của
nhau để xem ai xao xuyến trước".
Ngay sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan trong vùng biển Việt Nam, các
nhà lãnh đạo Hà Nội đã tìm cách thương lượng với Bắc Kinh. Trung Quốc
phản ứng với bốn điều kiện tiên quyết : Việt Nam phải chấm dứt sách
nhiễu giàn khoan; Việt Nam phải từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với quần
đảo Hoàng Sa; Việt Nam không được theo đuổi hành động pháp lý chống lại
Trung Quốc; và Việt Nam không được lôi kéo môt bên thứ ba, chẳng hạn như
Hoa Kỳ.
Theo Vuving, tập thể lãnh đạo của Việt Nam đã phản ứng bằng cách hủy
bỏ kế hoạch xúc tiến hành hành động pháp lý chống lại Trung Quốc và trì
hoãn chuyến thăm Washington của Ngoại trưởng Minh. Điều này tạo tiền đề
cho Trung Quốc để thực hiện "một hành động xuống thang tương ứng."
Vào ngày 15/07/2014, Trung Quốc thông báo rút giàn khoan HD-981 ra
khỏi vùng biển Việt Nam và, trong một động thái riêng biệt, đã thả 13
ngư dân Việt Nam bị họ bắt giữ trước đó. Vuving kết luận rằng "các hành
động của Bắc Kinh có thể trông giống như một sự mặc cả ngầm, nhưng bản
chất thực sự của sự mặc cả là một cái gì đó rất khác." Vuving ghi nhận
tính chất đối xứng và sự mong manh của sự nhượng bộ lẫn nhau của cả
Trung Quốc lẫn Việt Nam. Nói cách khác bên nào cũng có thể đảo ngược
hành động của mình vào bất kỳ lúc nào.
Trái với Abuza, Vuving xem xét động lực của cả Trung Quốc lẫn Việt
Nam trong phân tích của mình. Vuving kết luận rằng thái độ nể trọng của
Hà Nội đối với Bắc Kinh chỉ là "một phần nhỏ của các đối sách, nếu giả
dụ rằng thực sự có phần đó."
Vuving lập luận rằng cho đến lúc cuộc khủng hoảng giàn khoan nổ ra,
Trung Quốc vẫn áp dụng chiến thuật "cắt lát xúc xích / salami - slicing"
theo đó Bắc Kinh theo đuổi "một sự cân bằng tinh tế giữa quyết đoán và
kiềm chế sao cho hành động [của Trung Quốc] đủ để thay đổi thực tế trên
hiện trường nhưng không đủ để tạo ra một lý do tốt cho người khác để
kiên quyết chống lại".
Trái với Abuza vốn khẳng định rằng các lãnh đạo Việt Nam đã đầu hàng
Trung Quốc, còn "Hoa Kỳ... thì đã không dấn thân một cách có ý nghĩa",
Vuving kết luận ngược lại. Theo Vuving, động thái bắt nạt của Bắc Kinh
đã dẫn tới một sự thay đổi chưa từng có trong nhận thức của Việt Nam về
Trung Quốc, và "cùng với mối đe dọa về một liên minh trong thực tế với
Mỹ, là một sự thay đổi lớn trong cách tiếp cận Bắc Kinh của Hà Nội."
Hơn nữa, Vuving ghi nhận là "xu hướng chung... đã thúc đẩy thêm một
số nước, trong đó có Nhật Bản, Philippines, Úc, Ấn Độ và Việt Nam, điều
chỉnh tư thế quân sự của mình và sắp xếp lại chính sách đối ngoại để đối
phó hiệu quả hơn với thái độ hung hăng của Trung Quốc."
Trong phần kết luận, Vuving lập luận rằng trong quá khứ, nhiều nước,
bao gồm cả Việt Nam và Hoa Kỳ, đã tạo ra một "cái trần nhà bằng thủy
tinh" và "áp dụng chính sách tự kiềm chế vì sợ khiêu khích con rồng
khổng lồ." Trung Quốc đã biết "khéo léo khai thác nỗi sợ hãi này với
chiến thuật "cắt lát xúc xích". Do tác động của cuộc khủng hoảng giàn
khoan, tấm trần thủy tinh đã bị phá vỡ và Trung Quốc đã lộ rõ bộ mặt
"không khác nhiều so với các tác nhân khác" trong nỗi lo ngại một cuộc
leo thang. Nói cách khác, Trung Quốc đã chùn bước.
Lập luận của Abuza không hợp lý, thiếu xác thực
Tường trình của Abuza về tiến trình lấy quyết định của Việt Nam có thể bị xét lại về tính hợp lý và xác thực.
Trước hết, không có thông tin công khai nào về sự kiện Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp lại vào tháng Sáu. Một nhà quan
sát tại Hà Nội đã ghi nhận trong một thông tin cá nhân: "Không hề có
một tiếng thì thầm nào tại Hà Nội về một cuộc họp như vậy... Che giấu
một sự kiện lớn như một cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương cũng là
một điều rất khó khăn." Một quan chức cấp cao của chính phủ xác nhận vào
cuối tháng Bảy rằng không hề có một cuộc họp nào của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng kể từ Hội nghị Trung ương lần thứ chín (08-14/05).
Hơn nữa, như một nhà ngoại giao tại Hà Nội đã nói riêng với báo The
Diplomat, "nếu quả là cuộc họp vào tháng Sáu của Ban Chấp hành Trung
ương đã "nhất trí quyết tâm lên án sự gây hấn và xâm lược của Trung
Quốc", tại sao Đảng lại không công bố bất kỳ nghị quyết nào về điều này
sau cuộc họp ? Điều đó há không phải là sẽ phục vụ mục tiêu đối nội giúp
trấn an công chúng rằng Đảng đang xử lý tình hình ?"
Thứ hai, tường trình của Abuza về chuyến thăm Hà Nội ngày 18/06 của
Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì tập trung một cách quá hạn
hẹp vào các thái độ công khai của ông Dương Khiết Trì. Trước chuyến thăm
của ông, Trung Quốc đã từ chối khoảng 30 đề nghị tiếp xúc của Việt Nam
để đàm phán về cuộc khủng hoảng giàn khoan, nhưng ông đã đến Hà Nội tham
dự cuộc họp thường niên dự trù từ lâu của Ban chỉ đạo chung về hợp tác
song phương. Đây là một dấu hiệu quan trọng cho thấy là Trung Quốc sẵn
sàng đối thoại với Việt Nam.
Khi đọc kỹ các thông cáo chính thức của Bộ Ngoại giao Việt Nam, ta
thấy rằng khi ông Dương Khiết Trì gặp Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai
bên đã có một thỏa thuận chung là « tiếp tục thảo luận về cách giảm bớt
căng thẳng và giải quyết các vấn đề liên quan đến biển. ». Sau chuyến
thăm của ông Dương Khiết Trì, các phương tiện truyền thông Trung Quốc mô
tả kết quả bằng những từ ngữ tích cực hơn rất nhiều so với các phương
tiện truyền thông phương Tây được ông Abuza trích dẫn. Theo ghi nhận của
Vuving, chuyến thăm của ông Dương Khiết Trì tạo điều kiện cho một cuộc
mặc cả để xuống thang.
Thứ ba, Abuza không dẫn nguồn khi ông khẳng định rằng Bộ Chính trị đã
họp lại sau chuyến thăm của ông Dương Khiết Trì và bác bỏ một nghị
quyết của Ban Chấp Hành Trung ương lên án Trung Quốc xâm lược. Ban Chấp
Hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội Đảng.
Bằng chứng là vào năm 2013, Ban Chấp Hành Trung ương đã nhiều lần phản
bác một quyết định của Bộ Chính trị.
Được biết là Bộ Chính trị đã họp nhiều lần nhân cuộc khủng hoảng giàn
khoan cả lúc trước và sau chuyến thăm của ông Dương Khiết Trì. Trong
một chuyến viếng thăm Việt Nam vào cuối tháng Bảy, tác giả bài này đã
được một số nguồn tin Việt Nam và ngoại giao cho biết là Bộ Chính trị đã
bỏ phiếu với tỷ lệ 9-5 để « thông qua một đề nghị xúc tiến thủ tục
trọng tài quốc tế ».
Các nhà ngoại giao tại Hà Nội theo dõi sát các sự kiện trên cho rằng
cuộc họp mang tính chất quyết định đó của Bộ Chính trị diễn ra vào đầu
tháng Bảy, trước lúc Trung Quốc thông báo rút giàn khoan HD-981.
Không thể nào biết một cách chắc chắn là từng thành viên của Bộ Chính
trị đã biểu quyết như thế nào tại cuộc họp đầu tháng bảy đó. Số liệu từ
một số nguồn thạo tin Việt Nam và nước ngoài ở Hà Nội gợi lên kết quả
như sau:
Đa số bao gồm: Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng, Lê
Thanh Hải, Lê Hồng Anh, Tòng Thị Phóng, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Thiện
Nhân và có khả năng là Phùng Quang Thanh.
Năm ủy viên thiểu số bao gồm Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Phạm Quang Nghị, Ngô Văn Dụ và Đinh Thế Huynh.
Các thông tin theo đó có hai Ủy viên Bộ Chính trị bỏ phiếu trắng
không chính xác. Vào đầu tháng Bảy, có hai Ủy viên Bộ Chính trị đang ở
nước ngoài và không thể tham dự cuộc họp. Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại
Quang đã đến thăm Đức ngày 3-4/07, trong khi Phó Chủ tịch Quốc hội, bà
Nguyễn Thị Kim Ngân thì đến thăm Argentina và Chile từ 30/06- 5/07.
Thứ tư, Abuza đã sai trong việc khẳng định rằng chuyến đi của Ngoại
trưởng Minh sang Hoa Kỳ đã bị hủy bỏ và Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang
Nghị đã được cử đi thay. Chuyến công du của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh
chỉ hoãn lại cho đến tháng Chín. Hiện nay, Đại sứ quán Việt Nam tại
Washington và Bộ Ngoại giao Mỹ đang thảo luận về thời điểm của chuyến
thăm của ông Minh.
Chuyến thăm của ông Phạm Quang Nghị được cho là nhằm tôi luyện lãnh
vực đối ngoại của ông và thăm dò hiện trạng quan hệ với Mỹ trước chuyến
thăm của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh.
Khó có khả năng Việt Nam thôi kiện Trung Quốc hay từ bỏ COC !
Về việc Bộ chính trị đã dẹp bỏ một quyết định kiện Trung Quốc hoặc là
Việt Nam giảm nhẹ việc nhấn mạnh đến bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông,
đây là một khả năng khó có thể xẩy ra.
Vào ngày 26/07, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh tổ chức một
hội nghị quốc tế về « những giải pháp hợp pháp trước sự kiện Trung Quốc
đặt giàn khoan HD 981 tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt
Nam ». Những người Việt Nam tham dự đã nói riêng là những khuyến nghị
của hội nghị sẽ được đưa lên lãnh đạo cấp cao, trước cuộc họp Ban Chấp
hành Trung ương dự trù vào tháng 8 này.
Việt Nam vẫn hoàn toàn gắn kết với ASEAN và hậu thuẫn cho một bộ Quy
tắc ứng xử (COC) ở Biển Đông. Năm ngoái Trung Quốc đã thay đổi thái độ
và đồng ý gặp các viên chức trong ASEAN để bàn về Quy tắc ứng xử COC,
trong khuôn khổ tiến trình thảo luận về việc thực thi Bản Tuyên bố về
ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC).
Rất khó có khả năng Việt Nam giảm hậu thuẫn cho COC để được lòng
Trung Quốc. Cả hai bên đều dấn thân vào tiến trình ngoại giao. Bây giờ
Việt Nam có thực sự nghĩ là COC sẽ được đúc kết hay không, đó là một
chuyện khác. Như một viên chức cao cấp Việt Nam trả lời tờ Diplomat, «
hành trình quan trọng hơn là điểm đến ».
Cuộc họp thường niên các ngoại trưởng ASEAN, Diễn đàn ARF, các cuộc
gặp gỡ với các đối tác ASEAN, tất các cuộc họp đó sẽ bàn thảo về cuộc
khủng hoảng do giàn khoan Trung Quốc gây ra, về hướng đi sắp tới.
Điều rõ ràng là Trung Quốc sẽ bị sức ép ngoại giao rất mạnh để ‘đóng băng’ các hành động khiêu khích ở Biển Đông.
Việt Nam sẽ không thúc thủ trước Trung Quốc, nhưng cũng không liên minh với Mỹ
Sự cố giàn khoan đã chứng tỏ khả năng của Việt Nam đứng lên chống
Trung Quốc, và cho thấy quyết tâm của mình. Việt Nam có lẽ sẽ không khóa
cửa đối với bất kỳ giải pháp nào, kể cả việc kiện Trung Quốc. Vì quyền
lợi của mình, Việt Nam nên giữ lại biện pháp này để phòng hờ.
Các lãnh đạo thận trọng của Việt Nam có lẽ sẽ không xuôi tay trước sức ép của Trung Quốc cũng như sẽ không liên minh với Hoa Kỳ.
Việt Nam và Trung Quốc phải nỗ lực rất nhiều để hàn gắn quan hệ song
phương đã bị tổn thương và tái lập sự tin tưởng chiến lược vào nhau.
Việt Nam có lẽ sẽ dấn thân sâu hơn vào quan hệ đối tác với Hoa Kỳ.
Đường lối ngoại giao Việt Nam có lẽ sẽ tiếp tục như hiện nay hơn là
thay đổi. Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện đượng lối ghi trong nghị quyết
số 8 của Ban Chấp hành Trung ương, đấu tranh và hợp tác với các cường
quốc lớn thế giới, đẩy mạnh lợi ích quốc gia và tiếp tục cách tiếp cận
đa phương trong quan hệ đối ngoại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét