Trung Quốc 'trỗi dậy bạo lực': Trọng điểm triệt phá là Việt Nam
Hiện TQ không còn “giấu mình chờ
thời” mà đang “trỗi dậy bạo lực”. Trong mắt họ, Việt Nam là tường thành
vững chắc trên biển Đông, cần phải phá vỡ.
Trong giai đoạn đầu thập
niên 90 - thế kỷ 20 cho đến giữa thập niên đầu của thế kỷ 21, quan hệ
giữa Trung Quốc và Asean tương đối êm đẹp, tuy cũng có những bất đồng
nho nhỏ.
Nhiều
người cho rằng, lúc đó Trung Quốc sử dụng “quyền lực mềm” để ép các
nước thuộc khu vực phải đi theo quỹ đạo và sự điều khiển của họ. Đây
cũng là một yếu tố, tuy nhiên nó không phải là tất cả.
Thực
ra, Trung Quốc biết chắc là không thể dùng uy tín của một cường quốc
hoặc “quyền lực mềm” quân sự hay là chính sách ngoại giao để khuất phục
hoặc lái các nước Asean đang có tranh chấp về lãnh thổ, đi theo định
hướng của mình. Bắc Kinh “ngọt nhạt” với các nước đông nam Á trong giai
đoạn đó là do nhiều nguyên nhân.
Trước hết là khi
đó Trung Quốc chưa đủ lực để thôn tính biển Đông nên Bắc Kinh vẫn phải
“giấu mình chờ thời”. Đầu thập niên 90, lực lượng hải quân, không quân
Trung Quốc mới bắt đầu bước vào giai đoạn hiện đại hóa, hải quân chưa đủ
vươn xa, không quân mới chỉ có các loại máy bay cổ lỗ J-7, J-8, lực
lượng tàu chấp pháp công vụ hầu như chưa có gì.
Chính
vì vậy, Bắc Kinh mới “ngọt nhạt” với Asean vừa nhằm mục đích “ru ngủ”
các nước đông nam Á về một cường quốc Trung Hoa yêu chuộng hòa bình, vừa
nhằm mục đích xây dựng quan hệ với các quốc gia không có biển hoặc
không có mâu thuẫn như Thái Lan, Myanmar, Singaporre, Campuchia… và chi
phối kinh tế các nước đông nam Á hòng tìm kiếm một công cụ chiến lược để
gây áp lực trong tương lai.
Trung Quốc bắt đấu gây hấn bằng hành động kéo giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
|
Song
song với đó, Trung Quốc đã mua sắm hàng loạt các máy bay chiến đấu
Su-27/30, khu trục hạm lớp Sommeverny, tên lửa phòng không mặt đất S-300
PMU2, tên lửa S-300FM trên tàu khu trục, các loại tên lửa chiến thuật
của Nga, tàu sân bay Varyag từ Ukraine… để vừa nhanh chóng nâng cao sức
mạnh không/hải quân, vừa học hỏi để chế tạo vũ khí.
Đến
cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, sức mạnh quân đội Trung Quốc cơ
bản đã được nâng lên một tầm cao mới với các máy bay chiến đấu nội địa
J-10, J-11; tàu khu trục Type 051C, Type 052C, tàu hộ vệ Type 054A; lực
lượng tàu chấp pháp biển cũng tương đối mạnh với 5 lực lượng: Hải quan,
Hải tuần, Hải cảnh, Hải giám và Ngư chính, thống nhất dưới sự quản lý
của lực lượng cảnh sát biển.
Đến lúc này, Bắc Kinh
tự cho rằng mình đã “đủ lông, đủ cánh” và bắt đầu “trỗi dậy không hòa
bình”. Trung Quốc bắt đầu giấc mộng bành trướng bằng chiến lược độc
chiếm biển Đông - nơi có khối Asean với 10 nước nhưng chỉ có 5 quốc gia
có tiềm lực không mạnh là Việt Nam, Philippin, Indonesia, Malaysia,
Bruney, liên quan trực tiếp tới tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên vùng
biển này.
Hiện nay, cả 5 nước đông nam Á liên quan
đến vùng biển này đều là những nước đang phát triển với tiềm lực kinh tế
và quốc phòng hạn chế, thêm vào đó sự liên kết giữa các quốc gia trong
nội khối còn khá lỏng lẻo, thậm chí có cả những tranh chấp về chủ quyền
trên biển như Malaysia với Philippines, Malaysia với Indonessia.
Trong
số nước này cũng chỉ có Việt Nam và Philippines là có tranh chấp chủ
quyền gay gắt nhất với Trung Quốc, còn lại Brunei có tuyên bố chủ quyền
“không rõ ràng” với quần đảo Trường Sa, Malayssia và Indonessia nằm xa
nhất mà cũng chỉ có 1 phần nhỏ nằm trong phạm vi “liếm” của “lưỡi bò
Trung Quốc” là bãi cạn James Shoal và một phần quần đảo Na Tu Na Bắc.
Máy bay chiến đấu J-10 của không quân Trung Quốc
|
Tuy
nhiên, hiện Việt Nam, Indonesia và Malaysia đang tăng cường ngân sách
quốc phòng nhằm cấp tốc hiện đại hóa lực lượng hải quân và không quân
đánh biển. Ngay cả Philippines cũng đang dốc hết sức mua sắm vũ khí để
quyết đấu với Trung Quốc. Chỉ sau khoảng thời gian 5 năm nữa, tiềm lực
của các quốc gia đông nam Á sẽ có sự nhảy vọt về chất, nếu họ liên thủ
với nhau, Trung Quốc sẽ không thể làm gì được.
Trung
Quốc xác định, đây là thời điểm hợp lý nhất để “gặm nhấm biển Đông”,
hoặc là bây giờ, hoặc là không bao giờ. Để thực hiện điều này, Trung
Quốc đang áp dụng những hành động kiểu “bá quyền nước lớn”, cậy mạnh
hiếp yếu, bất chấp luật pháp quốc tế và sự thật lịch sử.
Để
thực hiện “giấc mộng Trung Hoa vĩ đại”, Bắc Kinh đã sử dụng chiến lược
đối đầu cầm chừng với Nhật Bản, tạm thời hòa hoãn không đòi thu hồi Đài
Loan để rảnh tay thôn tính biển Đông. Bắc Kinh đã thực hiện chiến lược
“bẻ từng chiếc đũa” trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, ngoại giao và quân
sự để phân hóa nội bộ khối ASEAN.
Có thể thấy rõ
chiến lược này khi nhìn vào những gì Trung Quốc đã làm với Asean trong
thời gian vừa qua. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 45
(AMM-45, tổ chức năm 2012 tại Campuchia đã không ra được Thông cáo chung
của Hội nghị (tuyên bố chung về Biển Đông) mà nguyên nhân phần lớn đến
từ thái độ kiên quyết của nước chủ nhà mà kẻ hậu thuẫn không ai khác
ngoài Trung Quốc.
Trong những ngày gần đây sự “ve
vãn” của Trung Quốc với những nước không liên quan hoặc liên quan ít tới
tranh chấp Biển Đông ngày một rõ.
Tàu hộ vệ tên lửa Type 054A Diêm Thành (546) của Trung Quốc
|
Cũng
chỉ mới cách đây ít ngày một đoàn quân sự cấp cao của Thái Lan đã sang
Trung Quốc để “tham vấn”. Trong bối cảnh các nước phương Tây đang chỉ
trích và đe dọa đình chỉ quan hệ với Thái Lan vì cuộc đảo chính lật đổ
chính quyền của Thủ tướng Yingluck, động thái này cho thấy Trung Quốc đã
ngay lập tức lợi dụng tình hình để tranh thủ tìm kiếm sự đồng tình.
Cuối
tháng 5 vừa qua Thủ tướng Malaysia đã có chuyến thăm chính thức Trung
Quốc, và ngay sau đó ông Wang Chungui - cựu Đại sứ Trung Quốc tại
Malaysia đã tuyên bố những lời có cánh là “Bắc Kinh và Kuala Lampur có
chung một góc nhìn về vấn đề Biển Đông”!!!
Trung Quốc “trỗi dậy bằng bạo lực”: Trọng điểm triệt phá là Việt Nam
Trung
Quốc đã chọn Biển Đông làm nơi bành trướng, và mục tiêu trọng điểm
trước tiên của họ tại đây là Việt Nam và Philippines vì cả 2 nước đều
tuyên bố chủ quyền với quần đảo Trường Sa, nếu giải quyết được 2 quốc
gia chạy dọc suốt phía tây và phía đông biển Đông, không khó để Trung
Quốc bắt nạt nốt Indonessia và Malaysia ở điểm cực nam của đường lưỡi
bò.
Lí do quan trọng nhất là hiện nay Trung Quốc đã
kiểm soát thực tế sườn phía đông "đường lưỡi bò", chạy dọc từ bãi cạn
Scarborough đến khu vực bãi Cỏ Mây, bãi Cỏ Rong ở Trường Sa, chặn đứng
mọi con đường tiến ra biển của Philippines. Trên thực tế hiện Manila
không còn kiểm soát được các đảo và bãi cạn mà mình đã tuyên bố chủ
quyền.
Giải quyết xong sườn phía đông nên hiện nay
Bắc Kinh quyết tâm thôn tính sườn phía Tây kéo dài từ Hoàng Sa, dọc theo
9 lô dầu khí Trung Quốc mời thầu phi pháp trên lãnh hải Việt Nam năm
2012, kéo dài đến hết Trường Sa. Vì vậy, Trung Quốc quyết định kéo giàn
khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam để gây hấn với
chúng ta.
Tàu hộ vệ lớp Gepard 3.9 của hải quân Việt Nam
|
Trung
Quốc chọn Việt Nam là điểm đột phá bởi vì hiện chúng ta là nước có tiềm
lực hải quân không mạnh lắm, có thể dễ dàng đè bẹp nếu có xung đột xảy
ra. Hơn nữa, chúng ta theo đường lối chính trị và ngoại giao không liên
minh, liên kết, vì vậy khi động đến Việt Nam, Trung Quốc sẽ không vấp
phải những "ông lớn" chống lưng kiểu như Mỹ với Philippines và Nhật Bản.
Một lí do khác là Trung Quốc lo sợ tinh thần đoàn
kết và truyền thống chống ngoại xâm và nội lực tiềm tàng trong lòng dân
tộc Việt. Hiện nay, có thể nói rằng, Việt Nam chính là bức tường thành
vững chắc nhất trong khối Asean để chống lại Trung Quốc, nếu qua mặt
được chúng ta, không khó để Bắc Kinh dằn mặt, thậm chí là đè bẹp các
nước khác.
Trung Quốc cũng đang quan ngại về xu
hướng đầu tư tăng cường lực lượng theo hướng "đi tắt, đón đầu", hiện đại
hóa hải quân và không quân Việt Nam. Hiện chúng ta đang mua sắm lô 12
chiếc Su-30MK2 kế tiếp, chuẩn bị tiếp nhận đủ 6 tàu ngầm Kilo, chuẩn bị
trang bị bộ đôi tàu hộ vệ Gapard mới của Nga, mua sắm một cặp chiến hạm
Sigma của Hà Lan và nỗ lực đóng mới hàng loạt tàu tên lửa cao tốc.
Chỉ
cần 5 năm nữa là Việt Nam cơ bản sẽ xây dựng được lực lượng vũ trang
hiện đại hóa với trọng tâm đầu tư là 2 quân chủng không quân và hải
quân. Khi đó, lực lượng không quân và hải quân của ta sẽ hình thành bộ
khung tác chiến khá mạnh, với đầy đủ lực lượng tàu nổi, tàu ngầm và tiêm
kích đánh biển, năng lực tác chiến của hải/không quân sẽ được nâng lên
một tầm cao mới.
Thất bại của những đội quân hùng
mạnh như Pháp, Mỹ và chính Trung Quốc đã khiến họ hiểu rất rõ là đất
nước và con người Việt Nam sẽ không bao giờ khuất phục trước bất kỳ thế
lực nào. Vì vậy, Trung Quốc xác định thời điểm này, khi Việt Nam chưa
hoàn thành kế hoạch hiện đại hóa quân đội, là thời cơ lớn nhất để
triệt Việt Nam, sau một thời gian nữa họ sẽ không thể làm được.
Tàu ngầm diezen-điện lớp Kilo của hải quân Việt Nam
|
Có
thể dự đoán là cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam sẽ rất khó
khăn, đến thời hạn 15/8 và 20/8 chưa chắc Trung Quốc đã rút giàn khoan
Hải Dương 981 khỏi lãnh hải Việt Nam và giàn Nam Hải 9 ở gần dường phân
định vịnh Bắc Bộ mà có thể sẽ dịch chuyển tiếp, thậm chí là lấn thẳng
xuống Trường Sa, đồng thời điều thêm một vài giàn nữa để căng mỏng lực
lượng chấp pháp Việt Nam với hy vọng chúng ta sẽ kiệt sức.
Hiện
nay, thẳng thắn mà nói là Việt Nam và Philippin, Indonesia, Malaysia,
Bruney đã không còn đường lùi. Trung Quốc đã hết thời kỳ “giấu mình chờ
thời”, quyết tâm “trỗi dậy bằng vũ lực”, bộc lộ dã tâm nuốt trọn biển
Đông, nên chắc chắn là Bắc Kinh chỉ có lấn tới chứ không bao giờ ngừng
lại, chứ đừng nói là lùi bước.
Trung Quốc đã chọn
biển Đông để gây hấn vì nghĩ rằng mình có thể “làm mưa làm gió” tại đây.
Tuy nhiên, đó là một sai lầm, bởi Việt Nam, Philippin, Malaysia,
Indonesia đều là những nước có tinh thần độc lập dân tộc rất cao và tinh
thần tự cường dân tộc mạnh mẽ. Chỉ cần 5 nước Asean có tuyên bố chủ
quyền trên biển Đông gác tranh chấp, đoàn kết lại thì Bắc Kinh không thể
làm gì được.
Chặn đứng âm mưu của Trung Quốc sẽ
phụ thuộc phần lớn vào sự kiên cường, quyết liệt nhưng mềm mỏng và khôn
khéo của Việt Nam. Trong thời gian tới, một mặt chúng ta sẽ phải kiên
trì đấu tranh bằng biện pháp hòa bình, mặt khác phải lập tức kiện Trung
Quốc ra Liên Hợp Quốc, đồng thời huy động sức mạnh của cộng đồng quốc tế
để ngăn chặn hành động ngang ngược của Bắc Kinh.
Song
song với đó, Việt Nam cần phải cảnh giác chống âm mưu la làng, ăn vạ
của Trung Quốc, thậm chí là các hành động tự gây tổn hại để tạo cớ gây
chiến của Bắc Kinh. Đồng thời các lực lượng vũ trang cũng phải nâng cao
cảnh giác sẵn sàng chuẩn bị và chuẩn bị đầy đủ phương án đối phó với
tình huống xấu nhất là đối phương chủ động gây xung đột quân sự.
- Thiên Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét